Friday, October 7, 2011
Tuesday, September 8, 2009
NGÀY EM ĐI
Ngày Em đi, lòng Anh buồn ray rứt ,
Thư viết rồi, nhưng biết gởi cho ai ?
Dù nhớ nhung, cũng chỉ biết thở dài ,
Ôi nhân thế ! sao lắm điều cay đắng .
Ngày Em đi, lòng anh thật trống vắng ,
Mỗi đêm về, trong giấc ngủ cô đơn .
Hình bóng Em luôn ngự trị tâm hồn .
Giòng tâm sự, xin ghi vào nổi nhớ !
Ngày Em đi, đâu còn Em trên Phố ,
Gót chân mềm, Em để lại sầu thương .
Vì yêu Em, thao thức suốt đêm trường ,
Tình vương vấn, mong có ngày gặp lại . . .
VK
Wednesday, August 26, 2009
SEX, DƯỚI MẮT NHÌN CỦA NGƯỜI VIẾT NỮ VN
Trịnh Thanh Thủy
Có quá nhiều người nghĩ rằng bất cứ truyện viết nào dính líu đến tình dục là khiêu dâm. Điều này xa với sự thật. Một câu chuyện có tình dục trong đó, có thể gợi tình nhưng không có nghĩa là nó thuộc loại khiêu dâm.
Văn chương tiểu thuyết từ lâu đã được chấp nhận là một thể loại truyện chính yếu đi sâu vào cuộc thám hiểm kinh nghiệm sống con người một cách nghiêm túc. Một trong những kinh nghiệm sống của con người là tình dục. Viết về tình dục là đề cập đến một khía cạnh nhân bản nhất của đời sống. Henry Fielding and Jonathan Swift đã không gặp trở ngại khi viết về tình dục một cách trực tiếp. Tuy nhiên nó đã mở ra những cuộc tranh luận quanh vấn đề các nhà quý tộc kiểu cách thời Victoria đã sử dụng văn chương như một phương tiện để đề cập tới tình dục một cách an toàn và gián tiếp.. Thời đó là giai đoạn Phục sinh, các nhà văn đã dùng những chi tiết tình dục để đạt mục đích mô tả những cá tính nhân vật của mình. Trong tác phẩm Falstaff của Robert Nye, nhân vật dâm dục Falstaff được miêu tả một cách rất chính xác với thứ ngôn ngữ thân xác. Sau đó tình dục đã được lãng mạn hoá (romantic sex) trở thành lành mạnh trong khuôn khổ tình yêu và hôn nhân để xác định chỗ đứng của nó chống lại giai cấp quý tộc lẫn giai cấp công nhân. Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 thì tình dục đi đôi với tư tưởng giải phóng con người và giữa thế kỷ thì thành giải phóng phụ nữ. Tính tự nhiên và quyết định của tình dục nằm trong lối suy nghĩ “giải phóng” này..
Hélène Cixous, một tiểu thuyết gia kiêm nhà phê bình nữ, trong bài tiểu luận Le rire de la Méduse (1975) đã nhắc nhở phụ nữ viết. Viết chính là tiếng nói của phụ nữ, tiếng nói được xem như cất lên từ dục tính chứ không phải từ văn hoá, tiếng nói để tạo ra cuộc đời, lạc thú chứ không phải để tích tụ.
Viết về tình dục, mở được cánh cửa nội tâm con người. Nó bày được những trạng thái tâm, sinh lý thường nhật. Phụ nữ viết về sex để diễn đạt những cảm quan của mình. Họ cũng có trí tưởng tượng như nam giới nhưng xã hội đã dạy họ rằng phụ nữ chỉ được quyền làm cái này, tránh làm cái kia, hoặc làm như thế mới là người phụ nữ tốt. Viết về ngôn ngữ thân xác giúp cho phụ nữ giải tỏa những uẩn ức đó. Đồng thời nó cũng là một kinh nghiệm sống trong vô vàn những kinh nghiệm sống khác mà người viết đưa vào tác phẩm của họ. Hơn thế nó là một hình thức nghiệm sinh, một hành trình qua đó con người tìm ra căn cước tình dục mà cũng là căn cước con người đích thực của mình. Ngoài ra, nó còn phô bày được hiện thực xã hội, khía cạnh của đời sống thực thường được ẩn giấu sau màng lưới thanh lọc của quy luật văn chương hay xã hội.
Quy luật văn chương hay xã hội này được thiết lập trên đặc quyền nam tính, nhất là trong một xã hội hay cộng đồng văn chương hẹp hòi và nhiều đố kỵ. Nó trói tay, buộc chân người viết nữ nói chung mà còn vây hãm người phụ nữ Việt Nam trong những giáo điều khe khắt nói riêng.
Người phụ nữ Việt Nam đã viết gì? Người viết nữ Việt Nam khi đặt bút viết, thường quanh quẩn trong môi trường gia đình và con cái. Họ viết về tình yêu, khát vọng, đam mê, ước mơ, qua giọng văn nhỏ nhẹ, tế nhị, dịu dàng, thùy mị và khiêm nhường.
Có một số người viết nữ có khuynh hướng bung thoát khỏi tầm ngắm. Họ muốn bứt phá bức tường thành kiến xã hội, tả và viết về tình dục như một biểu trưng của nữ quyền. Đồng thời họ cũng là mục tiêu cho nhiều phát đạn từ nhiều phía bắn vào.
Hình ảnh một người phụ nữ phản kháng lại thành kiến xã hội có thể là một hình ảnh cực kỳ xấu xa dưới mắt nhìn của nam giới và xã hội. Người phụ nữ viết về tình dục còn phải đối đầu với bạn bè, người thân, gia đình lúc nào cũng có những bất đồng ý kiến. Họ sẽ được gắn nhãn hiệu “một người nữ dữ dằn, mất tính dịu dàng, thùy mị, biết phục tùng của người phụ nữ Việt Nam”, không kể đến việc viết về tình dục sẽ bị gán thêm danh hiệu “con đĩ dâm ô” vì quan niệm “văn là người”.
Họ bị xem thường và hạ phẩm giá ngang hàng với tình dục vì từ lâu xã hội vẫn quan niệm tình dục là thấp hèn, đồi trụy, dâm ô, là bản năng loài thú. Người viết về tình dục tức một người dâm ô đáng khinh miệt!!!
Trong xã hội ngày nay, nhiều người đã có quan niệm cởi mở về tình dục. Nhiều người viết nam đã nhắc nhở và đề cập tới sex nhiều hơn trong tác phẩm của mình mà độc giả xem như đó là chuyện tự nhiên, quen mắt. Nhưng đối với người viết nữ Việt Nam thì không. Họ vẫn bị lên án viết tục tĩu. Nhưng tục tĩu là gì? Có phải những cảm xúc xuất phát từ dục tính? Ngôn ngữ của thân xác? Ước vọng của con người?
Người đọc Việt Nam có thói quen, tất cả những gì dính dáng bộ phận sinh dục hay hành động tính dục đều cho là dâm ô, tục tĩu. Định kiến xã hội có thói quen cảm nhận những từ ngữ thân xác là thô tục, trơ trẽn, sống sượng và hung bạo. Hơn nữa, mô thức đạo đức xã hội phong kiến đã khống chế tư duy của người Việt Nam một thời gian dài, từ ảnh hưởng Khổng, Mạnh, Phật giáo tới tinh thần thanh giáo trung cổ của Công giáo Việt Nam, đến tinh thần thanh giáo của chủ nghĩa xã hội, người Việt Nan vẫn còn đặt nặng luân lý xã hội, đạo đức cách mạng, đạo đức xã hội chủ nghĩa, v.v… trên bình diện nghệ thuật nói chung, văn chương nói riêng.
Người viết nữ chạm đến tình dục như một thách thức lại rào cản luân lý, đạo đức, xã hội. Do đó họ nghiễm nhiên bị lên án.
Trong kho tàng văn học Việt Nam thời xưa, người viết nữ đề cập đến tình dục nhiều nhất là nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bà dùng thơ ca để phản kháng mãnh liệt sự đối xử bất công của xã hội đã chèn ép, đánh giá thấp thân phận người phụ nữ qua bản thân của chính bà. Ngày nay những tác phẩm văn chương của bà được xã hội chấp nhận, ca tụng nhưng dĩ nhiên vào thời của bà, bà ắt chịu nhiều dè bỉu và phê bình gay gắt.
Là một phụ nữ học giỏi, có tài thơ văn nhưng duyên phận long đong, Hồ Xuân Hương phải làm lẽ ông Tri Phủ Vĩnh Tường luống tuổi. Sau ông mất sớm, bà phải gá nghĩa cùng ông Cai Tổng Cóc nhưng không lâu ông cũng qua đời.
Trong bài thơ “Lấy chồng chung”, bà nói lên được nỗi đắng cay chua xót của người phụ nữ lấy chung một chồng qua quan niệm đa thê, “trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng”:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Thân này ví biết đường nào nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Những người phụ nữ chịu đựng cảnh bị ức chế tình dục trong việc phải chia sẻ một người chồng ở xã hội Việt Nam thời xưa rất nhiều. Chuyện ái ân đối với họ như một ân huệ “lúc có, lúc không”. Khi được cho, thì “cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm (hỏng)”, thường xảy ra. Sống một thời gian ngắn với hai ông chồng già lắm vợ, bà Hồ Xuân Hương luôn lâm vào tình trạng nói trên. Trong bài thơ “Đánh cờ”, bà cũng bị hụt hẫng, tạo nên trạng thái uẩn ức tình dục ở người phụ nữ:
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc
đét đồn lên bày cuộc cờ người
… … …
chàng lừa thiếp đang khi bất ý
đem tốt đầu dú dí vô cung
thiếp đang mắc nước xe lồng
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu
Rốt cuộc bà cũng chẳng hưởng được gì. Sự bất công thối nát của xã hội phong kiến, khát vọng tình yêu và uẩn ức tình dục đã đẩy nữ sĩ Hồ Xuân Hương vào con đường cầm viết mà là một cây viết tình dục nữ như một duyên kiếp.
Trước thập niên 75, nhà văn nữ Lệ Hằng trong tác phẩm Mắt tím đã cho nhân vật nữ, vợ bé của một ông lớn nhiều tuổi, nói lên nỗi lòng của người phụ nữ với sự bất mãn tình dục:
“…Tôi nhắm mắt lại cảm giác đốt cháy sao nguôi tàn. Da thịt thôi đã hết sôi. Ái ân khi đầy khi vơi khi nồng nàn, khi giá băng. Tôi bực bội khó chịu vì Thụy không chờ nổi tôi đi hết đường. Nửa vời khó chịu quá, tôi mặc Thụy nằm thờ quay mặt đi.
Da thịt tôi buồn bực như lá chưa xanh đã héo, như quả chưa chín đã khô, như người chưa lớn đã vội già. Tôi muốn Thụy biến đi chỗ khác mà ngủ mà ngáy. Tôi muốn được một mình. Bây giờ tôi hiểu tại sao đàn bà ngoại tình. Thà không có chồng thà đừng ân ái. Thứ ân ái nửa vời là thứ ái ân đàn bà thù nhất…”
(Lệ Hằng, Mắt tím)
Ngày nay với sự tiến hoá của xã hội, chế độ “một vợ, một chồng” tuy giành được phần nào công bằng cho người nữ nhưng sự xem thường và ít coi trọng cảm xúc người phụ nữ vẫn xảy ra trong cuộc sống hằng ngày.
Kỹ thuật điện toán đã nối cầu giao lưu giữa người và người. Phụ nữ không còn mặc cảm thân phận dưới khung trời ảo. Họ tranh luận, tự tin, cởi mở, nói điều muốn nói, bày tỏ cảm nhận của mình bạo dạn và rõ ràng hơn, nhất là trong lãnh vực tình dục. Họ tự hào đã vượt qua thành kiến xã hội. Họ dễ dàng chấp nhận thế giới ảo như một sinh hoạt xã giao thường nhật. Thế giới ảo làm thay đổi tư duy, cách cư xử của người phụ nữ nói chung và người phụ nữ trẻ nói riêng. Nữ giới bây giờ đọc và viết nhiều hơn ngày trước
(Trịnh Thanh Thủy, “Phụ nữ viết”)
Gần đây, Lê Thị Thấm Vân, một cây viết nữ cấp tiến, đã kể lại câu chuyện của một nhân vật nữ, có người yêu bị bất lực nên rơi vào tình trạng uẩn ức tình dục. Để bù đắp tình trạng khiếm khuyết, phụ nữ này đã sống với nhiều người đàn ông và đắm chìm trong tình dục với bản năng của loài thú. Qua tiếng nói người đàn bà này, chúng ta thấy được sự phản kháng mãnh liệt thành kiến hủ lậu “trai năm thê, bảy thiếp” và sự bùng vỡ của tiếng nói bấy lâu bị bắt buộc phải nín lặng trong văn chương:
“...Mình ớn mình, sợ mình. Không lẽ cứ sống cái đời lăng quăng quanh mấy thằng đàn ông con trai mãi vầy sao?
Tối qua mình nằm nghĩ thật tình như vầy: đàn ông khỏe mạnh trẻ trung to con cỡ như thằng Mễ, một ngày ra ba lần là hết xí quách, đi chân nam đá chân xiêu, mắt nhìn gà hóa chó. Còn con mụ đàn bà, như tụi điếm, làm tình một ngày cả tá thằng đàn ông chẳng sao cả, vẫn ca vọng cổ, cải lương rất ư mùi mẫn, vẫn gánh nước đi khơi khơi... Đúng ra đàn bà có thể lấy một lúc nhiều chồng được, chứ tại sao một ông mà có hàng lố bà vợ được??? (Trai năm thê bẩy thiếp). Một bà có thể làm thỏa mãn ba thằng đàn ông trong cùng một lúc. Còn đàn ông là no way! Không cách chi làm thỏa mãn được mụ vợ thứ ba chứ đừng nói chi đến mụ vợ thứ bẩy!!! (Gái chính chuyên một chồng). Chắc vậy mà đàn ông hay sợ quê, tự thấy mình bị lép vế, yếu kém thua đàn bà nên ưa toác họng ưỡn ngực thằng nào cũng mạnh mồm cho ta đây mạnh khỏe, sức lực dồi dào macho, đêm bảy ngày ba, loe ngoe chưa tính. Dóc tổ mẹ. Toàn một lũ nói cho đã miệng. Thằng nào cũng nhiều đào, nhiều em, nhiều vợ... Cả một lũ nằm mơ. Thôi thì cho tụi nó ước ao sống tận cùng với những giấc mơ, nhưng trong thực tế tụi nó tự biết là đéo chẳng bao giờ đạt được.
Ừ, mình nghĩ con người cũng lạ lùng. “
(Lê Thị Thấm Vân, Âm vọng)
Từ xưa, văn chương là địa bàn của nam giới. Erica Jong có nói “Phụ nữ chọn nghề văn thường là để tạo dựng chỗ đứng trong một xã hội do đàn ông cai quản”.
Nhà văn nam đề cập tới tình dục khác nhà văn nữ. Họ không có khuynh hướng tả miên man và kéo dài một phân cảnh. Họ thích chớp nhoáng và đạt mục tiêu mau lẹ. Họ tập trung trên diễn tiến sinh vật lý. Phụ nữ thì nghiêng về cảm xúc sinh lý hơn:
“Tôi ngước mặt lên đón nước, bộ ngực thanh tân chưa hề ai đụng tay vào lồ lộ ngẩng cao… Bỗng chàng đặt hai tay lên người tôi, xoa nhè nhẹ. Tôi run rẩy, kích động. Một cảm giác rạo rực chưa bao giờ biết trong đời con gái bỗng làm tôi suýt khóc. Dưới nước mà tôi nghe lửa cháy rực người. Tôi nhắm mắt lại, mở mắt ra, quýnh quáng chẳng biết phải làm sao. Tôi lụp chụp ghì hai bàn tay chàng, nhẩn nha cắn những ngón tay thô bạo gợi tình. Từ cổ họng phát ra tiếng kêu rên là lạ.”
(Miêng, Đồng thiếp)
Viết về Sex là một trò đu dây đầy cám dỗ dành cho những cây bút nhiều năng lực và bản lãnh. Người viết non tay dễ dàng cho những dòng chữ mình viết rơi xuống sự khiêu dâm thấp kém. Ngược lại, với người viết cao tay, có thể soi rọi và làm thăng hoa những ẩn ức bí mật chìm sâu trong thế giới tâm linh, bản năng khuất lấp thân phận con người.
Truyện ngắn “Ám thị” của Phạm Thị Hoài tả cảnh nhân vật nữ là một người đàn bà được chồng cưng chiều cho người về đấm bóp để trị bệnh đau nhức. Hoài đã tung hoành ngòi viết của mình trong ghetto sex cấm kỵ mà người đọc không mảy may cảm thấy bà đang đụng chạm đến “Taboo” tình dục:
“Thày ngồi chắc chắn phía sau, đỡ tôi bằng hai đầu gối, cằm tì nhẹ trên gáy tôi, tay vòng qua nách ra trước, ôm quanh hai vai, khoá lại. Thày thúc nhẹ. Lưng tôi kêu rất đẹp. Tôi uốn người ra sau như cánh cung, chân chơi vơi không chạm chiếu, đầu ngả xuống ngực thày. Thày nghiêng xuống, má ấp má tôi một thoáng, miệng kề miệng tôi trong tích tắc. Tay nhẹ nhàng buông vai, hứng lấy hai bầu ngực. Ngực tôi từ cương dễ sợ, hai núm vểnh lên thật đáng xấu hổ…
Tay ấy vê ngón tay tôi, vuốt mu bàn chân tôi, không quên một ly… Tay ấy mười con mắt. Bây giờ tay ấy ôm ngang eo tôi, lùa trên bụng tôi, toả xuống ngang hông, chập chờn, thăm dò. Rồi quả quyết chườm quanh rốn. Rồi xoa, mỗi vòng một rộng, tay này đuổi tay kia, một quành xuống bụng dưới và một lội qua vùng ngực. Rồi ngọt ngào miết dọc những dẻ xương sườn. Rồi miết đi miết lại từ cổ xuống ức, lách giữa hai bầu ngực…”
(Phạm Thị Hoài, “Ám thị”)
Phái nam dựng truyện, cấu tạo người phụ nữ theo mắt nhìn và quan điểm cá nhân của họ.. Khi đề cập đến tình dục cũng vậy, họ viết, nói, nghĩ thay cho phái nữ. Nhân vật nữ được uốn nắn theo ý người viết và được đưa công thức “rên, thở, sướng khoái, xúc cảm” toàn theo chủ ý người viết. Pat Califia đã nói trong cuốn Leatherdyke của bà “Tôi rất chán khi phải đọc những tiểu thuyết viết dối trá, không thật về đời sống tình dục của chúng tôi”.
Trong tiểu thuyết Bếp lửa viết vào thập niên trước 1975, Thanh Tâm Tuyền đã cho nhân vật nữ tên Hạnh tư duy theo lối suy nghĩ của một người đàn ông Việt Nam:
“...đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương. Sau mỗi lần như thế khi lấy lại bình thường, Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Có một lần nằm cạnh tôi, Hạnh nắm tay tôi để lên ngực nàng và hỏi: “Anh có khinh em không?”
(Thanh Tâm Tuyền, Bếp lửa)
Người phụ nữ trong tiểu thuyết của ông mang một tâm trạng người con gái Việt Nam lúc nào cũng sợ nhân vật nam khinh khi vì đã trót lỡ cho người nam chiếm đoạt và ăn nằm với mình dù đã ân ái biết bao lần, dù đã nhiệt tình say đắm. Sự xem thường, coi rẻ người đàn bà đã hiến thân, lỡ cho đi cái quý nhất đời mình đã ăn sâu vào nhân vật nam cũng là hoá thân của tác giả nên tác giả đã cho Hạnh tư duy theo chiều hướng suy nghĩ của mình và khoác cho Hạnh cái tâm trạng mặc cảm mãi mãi bị ám ảnh. Vô hình chung, tác giả ngầm nhắc nhở người phụ nữ lúc nào cũng phải trở về vị trí của mình, cái thân phận “nằm dưới”...
Trùng Dương của thập niên 70, trong Chung cư, đã cho Diệu, nhân vật nữ của mình hành động, tư duy như một người nữ vì chính họ là phụ nữ. Cái tôi của người phụ nữ trong tình dục được thể hiện qua hành động “đòi nằm trên”:
Diệu bảo: “Em lên anh nhé?”
(Trùng Dương, Chung cư)
Lê Thị Thấm Vân xác định rõ ràng hơn vị thế bình đẳng của người nữ trong việc chăn gối. Nhân vật của Thấm Vân không chịu khuất phục trước định mệnh và bản năng và sống đến tận cùng cảm giác đời mình. Lần làm tình thứ nhất, cô nhớ, ở phòng trọ nhà người bạn đi nghỉ hè, cô ra dấu bảo anh đổi tư thế, với vẻ trìu mến của con mèo hoang, cô ngồi lên người anh. Làn sóng bụng anh nhấp nhô theo nhịp nhẩy hai bầu vú cô. Cô nhớ mãi đôi mắt anh không giấu được sự kinh ngạc. Đó là dấu hiệu mang dấu ấn tự quyết mà sau này liên hệ hai người quấn chặt bởi bao khoảng trống im lặng giằng co phức tạp. Và rồi tiếp những lần sau, nhiều năm sau, đôi ba lần cô vừa làm tình vừa khóc dữ dội trên người anh. Cô không cần giấu mặt, nước mắt rơi vãi thấm qua làn da cả hai. Chỉ với riêng anh, vài lần hiếm hoi để đời. Không cả với chồng, sau này. Trong tự điển đời em, em luôn cố gắng bôi xóa hai từ ngữ định mệnh và bản năng.
(Lê Thị Thấm Vân, Âm vọng)
Trong xã hội Việt Nam hiếp dâm không được xem là tội trọng. Trong văn học, nó được đơn giản hoá như một tai nạn, một sự kiện hay được người viết hoá phép, biến thể thành sự đồng thuận, và hơn thế nữa kẻ bị hiếp dâm lại tìm được thống khoái trong khi bị hiếp.
Chúng ta có thể tìm thấy điều này nhan nhản trong các tác phẩm như “Chí Phèo” của Nam Cao, Giông tố của Vũ Trọng Phụng hay trong cuốn Tình cao thượng xuất bản tại Sài Gòn năm 1968 của Nguyễn Mạnh Côn.
Nguyễn Mạnh Côn là một nhà văn miền Nam rất cấp tiến. Nhân vật nữ là thiếu nữ tên Ngọc còn rất trẻ bị một bọn du thủ, du thực bắt cóc, thay phiên nhau hãm hiếp, nhưng:
“…Trong lúc đi lại với em, em không thấy ghê tởm... Nó đi lại thật mạnh, thật lâu. Có lúc em đê mê, cuống quýt, hình như em đã rên rỉ, đã bảo nó hôn em đi, hình như em có rướn người, ghì chặt lấy nó...” (tr. 69)
... thế mới biết Tư Giỏn đã làm cho em mệt, sự mệt mỏi dấu hiệu của sự thoả mãn toàn thân... (tr. 89)
Trong xã hội Tây Âu ngày nay, hiếp dâm là một trọng tội. Tội hình gia trọng thứ nhì sau giết người bằng vũ khí. Nạn nhân hứng chịu những vết thương bạo hành trên cả hai phương diện sinh lý và tâm lý. Có người nổi điên hoặc bị ám ảnh suốt cuộc đời. Chưa kể chuyện bị người yêu, bạn bè hay xã hội ruồng bỏ, xa lánh. Ngọc là một thiếu nữ rất trẻ, có thể chưa có kinh nghiệm về tình dục, bị bắt cóc và hãm hiếp tập thể như vậy, không đau đớn, băng huyết hay phát điên thì thôi lại còn rên rỉ, thoả mãn, đáp ứng cuồng nhiệt.
Không có một vở kịch bi hài nào hơn đoạn viết này. Tôi không muốn đi sâu vào việc phân tích kỹ thuật viết của tác giả mà chỉ muốn đề cập đến sự kiện hiếp dâm của đám du đãng đã được tác giả che đậy và làm trắng án bằng cử chỉ biểu đồng tình.
Trong bài viết"SC trước bàn thờ” đăng trên diễn đàn talawas, ông Kiệt Tấn đã thể hiện cái tinh thần “hiếp dâm, thô bạo” phụ nữ trong lối viết “…Mà một khi đã nứng cặc rồi thì phải đụ, đàn bà không chịu đụ thì hiếp dâm, hiếp dâm không được thì đi chơi đĩ…”
Sự tấn công tình dục của nhân vật nam trong truyện ngắn “Chéo áo con bạn vàng” của Kiệt Tấn đã cho chúng ta thấy rõ quyền thống trị, chiếm hữu phái nữ (dưới tuổi vị thành niên) trong truyện của ông.
Đây là một trích đoạn của Kiệt Tấn, diễn tả cảnh một nhân vật nam sau khi hẹn hò gặp gỡ người yêu tuổi 15, 16 của mình nơi mả đá.
"…Tôi mân mê chút hông còn để trống cho đỡ ghiền. Sóng tình dường đã xiêu xiêu, xem trong âu yếm có chiều lả lơi. Tôi mân mê lần xuống thấp, ướm thử. Co giãn, nới được, không thắt gút như mọi bận. Tim tôi đập mạnh. Tôi luồn tay. Nàng chận giữ tay tôi lại, đè cứng. Tôi vói tay kia gỡ tay nàng ra rồi bàn tay nọ tiến lên, sát trên làn da mịn màng. Đầu tôi bừng bừng. Bàn tay tôi nâng lên, dỡ ra, mắt liếc nhìn như tia chớp… cỏ non lơ thơ nằm êm xuôi trên gò trinh nữ, xuôi xuôi một chiều, dễ thương vô cùng, mơn mởn tuyệt diệu, dễ thương như tóc măn đầu đời trên mỏ ác của đứa trẻ sơ sinh vừa được mẹ hiền vuốt cho tóc nằm xuôi xuống… Tim tôi đứng sững chết cứng theo tia nhìn mướt trên gò trinh nữ… nàng vùng vẫy, tôi cố sức rấn bàn tay xuống. Hoa thốt kêu “Đừng anh! Đau.”
Tôi đã trở nên người điếc.. ...Nàng kéo ra, vùng vẫy thảng thốt. Đừng anh! Dằn co. Đừng anh… Đừng anh! Tội nghiệp em! Tôi chưa kịp nghe… Anh Tội nghiệp em! Đầu nàng lúc lắc, tóc lất phất phủ vào mặt tôi… Tội nghiệp em! Có tiếng nghẹn nấc. Tiếng Hoa nấc khóc…
Tôi thở dài. Tôi nâng mặt Hoa lên, nước mắt nàng còn nhỏ giọt. Tôi hỏi em có giận anh không? Nàng lắc đầu…. “
Người con gái còn vị thành niên tuổi 15 bị chính người yêu của mình hiếp dâm, chống cự mãnh liệt, chỉ biết rấm rứt khóc lúc tàn cuộc và cuối cùng được tác giả cho phép nhân vật nam được tha thứ bằng hành động lắc đầu của người tình. Thế là tội hình gia trọng được trắng án. Trong xã hội có biết bao nhiêu người thiếu nữ Việt Nam bị hiếp dâm bằng chính người yêu của mình trong bóng tối mà không biết kêu than hay có thể kháng cự lại. Xong việc nói ra thì xấu hổ, ngậm đắng nuốt cay mà im lặng rồi gánh chịu hậu quả của hành động bạo hành bằng một cái bầu phải mang cùng bao nhiêu thống khổ của tai tiếng xã hội.
Chỉ những người phụ nữ có cùng một cảm xúc, một cõi tư duy mới thông cảm, mới nói lên được nỗi chua xót, thống khổ, xót xa đau đớn của nạn nhân bị bạo hành. Sự đồng cảm giúp nhà văn nữ viết về đề tài nhạy cảm này thật và sống hơn. Như nữ sĩ Eve Ensler đã ghi lại kinh nghiệm đau thương của một phụ nữ Bosnian, người đã bị hiếp dâm trong số 70.000 phụ nữ bị hiếp dâm trong cuộc chiến Bosnia. Như Thấm Vân kể lại cho chúng ta nghe, một cảnh hiếp dâm:
“...Cả cái may-ô trắng, hắn nhét tọng vào mồm má.... Má cố giẫy giụa dưới cánh tay hắn. Bóng tối đặc lềnh dù trời sáng trưng.
Cánh tay hắn nặng hơn toàn thân má. Nó là khối Uy Quyền. Hắn nhấc bổng người má, tấn mạnh vào tường, nghe một tiếng to đùng. Má ngất nửa thân dưới. Hắn khóa tréo hai tay má ra đằng sau. Tấm thân hắn là lò lửa. Con trâu điên biết chính xác hành động Muốn gì. Cái may-ô hắn tọng trong mồm làm má nghẹt thở. Má thấy mình đang bị ai thẩy xuống vực thẳm từ đỉnh trời. Hàng trăm triệu vòng tròn xoay tít trong tròng mắt. Sức Mạnh quả là khủng khiếp, thịt dần thịt. Hắn như cọp say máu, xé toạc má bởi cơn điên loạn, tọng cái vật gì cứng như khúc củi khô vào háng má, sâu thấu tận đỉnh óc. Đớn đau má hét, Không Được. Nước mắt chảy.. Cơn đau bùng lên theo từng cái thốc người của hắn, mạnh bạo và liên tục. Mớ tóc dài của má hắn xoắn ghì trọn mấy vòng tay. Hắn nhai nát hai đầu vú má. Hơi thở hắn như sấm rầm. Má cố cắn cào cấu, nhưng Không Được. Hai chân má dẫy đành đạch, cũng Không Được. Má không thể bám chặt một Vật Thể hay một Ý Niệm nào cả. Ôi! cái Quyền Năng của kẻ có Sức Mạnh. Má Vỡ Tan Tành.
Giờ đây, mỗi khi đi tiểu hay đi cầu, là Võ Thị Gái nghĩ ngay đến khúc củi dài, khô, cứng, đầu nhọn hoắc thọc sâu vào lỗ-đít-lỗ-đi-tiểu-Ôi-đớn-đau-đến-dường-nào...”
(Lê Thị Thấm Vân, Bóng gẫy của thần tích)
Không ai viết về tình dục phụ nữ thật và đúng hơn người phụ nữ hoặc ngược lại. Giả dụ khi bạn là nam giới muốn viết về một cặp trai gái yêu nhau, qua cái giai đoạn tán tỉnh, thân mật, nắm chân, nắm tay thì cũng phải tới giai đoạn làm tình, né đâu được vì nó hiện thực mà. Bạn muốn diễn đạt cái cảm xúc sinh lý của nhân vật nữ, bạn tả làm sao? Không lẽ lấy kinh nghiệm bản thân mình ra mà tả. Chắc chắn trăm phần trăm là bạn tả sai. Vì bạn có phải là người nữ đâu? Xúc cảm và các tiến trình sinh lý của người nam và người nữ khác nhau hoàn toàn. Bạn sẽ bảo, dẹp đi, tả cái cảnh dâm dật ấy làm gì. Hoặc bạn sẽ lờ phắt người nữ, chỉ tả hành động của người nam, hay né tránh nhẹ nhàng bằng vài lời đối thoại sơ sơ và khép tấm màn nhung, cho họ hiểu ngầm và tưởng tượng?
Nhu cầu thưởng thức của người đọc bây giờ đâu đơn giản như vậy. Tôi không muốn nói là bạn cần phải viết theo thị hiếu của người đọc nhưng trình độ thưởng thức của người đọc ngày càng phức tạp, thông minh và đa dạng. Người đọc ngày xưa có thể thụ động, ngồi yên xem bạn viết gì thì viết và cứ đọc, nhưng ngày nay họ cần đọc những gì thật hơn là những tưởng tượng hời hợt hay dối trá. Nếu bảo tiểu thuyết là tưởng tượng nhưng đâu phải tất cả những gì trong tiểu thuyết của bạn đều là hư cấu, hư cấu thường dựa trên sự thật mà tưởng tượng thêm.
Đó là một trong những lý do tại sao người phụ nữ cần tham gia vào văn học trên khía cạnh tình dục bằng chính ngòi bút của mình.
Như tôi đã nói ở trên, tình dục chỉ là một khía cạnh của đời sống. Viết về tình dục là viết về một khía cạnh nhân bản của đời sống con người và là lựa chọn riêng của người viết. Người viết nữ Việt Nam chọn viết về tình dục là chọn con đường chông gai nhiều tai tiếng và sóng gió so với những con đường thênh thang khác. Tôi nhận thấy cái giá họ phải trả cho công việc mà họ yêu mến này thật quá đắt. Vì vậy nên độc giả và những tác giả trước khi tham gia tranh luận nên tìm đọc tác phẩm các nhà văn nữ thay vì chỉ đọc vài trích dẫn qua mấy bài viết của Nguyễn Văn Lục, Thế Uyên… rồi mạnh mẽ đánh giá. Vì những trích dẫn và ngay cả bài viết của một tác giả không ít thì nhiều làm gì không có thành kiến hay thiên vị riêng. Chỉ có tác phẩm mới là tiếng nói thật, nói lên được những gì người viết muốn nói.
Trịnh Thanh Thủy
Ref. link:
http://www.talawas. org/talaDB/ showFile. php?res=4321&rb=0508
Saturday, August 1, 2009
QUỐC HIỆU VIỆT NAM
Quá trình hình thành, Quốc hiệu Việt Nam
Trước và trong thời Hai Bà Trưng, tiên tổ của người Việt Nam hôm nay gọi đất nước mình là gì?
Đó là một câu hỏi khó. Tuy vậy, tôi cũng tạm nêu ra từ “Âu Lạc”, trong đó Âu là Đất, Lạc là Nước. Từ ghép “Âu Lạc” mang nghĩa là đất nước hay xứ sở.
So sánh hơi khập khiễng thì tổ chức xã hội Âu Lạc khi ấy không khác mấy vùng đồng bào thiểu số Tây Nguyên cách đây trên dưới 100 năm. Nếu người Pháp từng kí âm “Đạ Lạch” thành Đà Lạt (nghĩa gốc là nước của người Lạch, xứ sở của người Lạch) thì người Hán cũng đã kí âm “Đất nước” thành “Âu Lạc”.
Chúng ta chỉ hình dung được: dường như Âu Lạc - Đất Nước có qui mô lớn hơn Đà Lạt - Nước Lạch.
Từ Âu Lạc xuất hiện lần đầu tiên trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Song nó hàm nghĩa rất rộng, đó là một khu vực bao la gồm Quảng Tây, Quảng Đông và miền bắc Việt Nam ngày nay. Vương quốc Âu Lạc nửa hư nửa thực gắn với An Dương Vương hầu như chỉ là sự ghép nối vụng về các mảnh sử liệu rời rạc có sau Sử kí.
Trên một góc nhìn nào đấy thì nước Nam Việt của Triệu Đà cũng có thể mang tên bản địa là Âu Lạc. Sử kí viết về nước Nam Việt, nhưng luôn nêu rõ dân là dân Việt, tuồng như trong thông nghĩa Bách Việt (hàng trăm / nhiều tộc Việt khác nhau phía nam Trường Giang).
Vậy chủ nhân của mảnh đất Việt Nam hôm nay có phải người Việt không, hay Việt chỉ là một từ ngoại lai mà lịch sử trót dùng.
Nước Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc.
Theo Việt vương Câu Tiễn thế gia (Sử kí thiên 412): Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ vua Hạ Vũ. Con thứ vua Thiếu Khang đời Hạ được phong đất Cối Kê để thờ cúng vua Hạ Vũ. Họ khai hoang lập ấp, cắt tóc xâm mình, trải qua hai mươi đời thì đến Doãn Thường. Doãn Thường đánh nhau với vua ngô là Hạp Lư. Doãn Thường chết, Câu Tiễn được lập làm Việt vương. Các chú giải của đoạn Sử kí trên:
1. Sách Chính Nghĩa, trích lại từ Ngô Việt xuân thu (viết vào năm 232 đến 300): Vua Hạ Vũ đi khắp thiên hạ, đến Đại Việt, lên Mao Sơn họp quần thần bốn phương phong thưởng, rồi mất và được an táng tại đó. Đến thời Thiếu Khang, vua sợ không ai tế tự tôn miếu, bèn phong con thứ là Ư Việt hiệu Vô Dư đất ấy.
2. Sách Cối Kê kí viết rằng: Con thứ của vua Thiếu Khang hiệu là Ư Việt, do đó tên nước Ư Việt xuất phát từ tên hiệu ấy.
3. Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt.
4. Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại.
5. Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác
vòng lễ nghĩa Hoa Hạ.
Xin xem thêm cùng một tác giả: Cổ sử Việt Nam, một cách tiếp cận vấn đề
– NXB Lao Động 2007. http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm
Sau khi Câu Tiễn diệt Ngô, quân Việt vượt sông Hoài cùng các nước Tề và Tấn hội ở Từ Châu, cung tiến vật phẩm cho triều Chu. Chu Nguyên Vương phong Câu Tiễn là Bá, trông coi các chư hầu vùng Giang Nam.
Đến đời Việt vương Vô Cương, Sở Uy Vương diệt nước Việt. Con cháu Câu Tiễn cũng như giới quí tộc Việt lưu lạc khắp miền Giang Nam, xưng tiểu vương hoặc quân trưởng và thần phục vua Sở. Đến Tần mạt, hai quân trưởng vùng đất Mân là Dao và Vô Chư giúp Hán cao tổ đánh quân Tần.
Năm 202 TCN Vô Chư được phong Mân Việt Vương cai quản vùng phía nam đất Mân (Quận Mân Trung thời Tần). Năm 192 TCN Dao lại được nhà Hán phong làm Đông Âu vương, cai quản vùng phía bắc đất Mân, ở lưu vực sông Âu.
Trong Sử Kí của Tư Mã Thiên, Ư Việt (於越) còn được viết là Vu Việt (于越 – Hóa thực liệt truyện SK 129). Sách Thuyết văn giải tự : Vu = Ư dã (là Ư vậy).
Dân Âu Việt là ai ?
Cũng Sử Kí (Triệu Thế gia SK 433) ghi nhận: 夫翦发文身,错臂左衽, 瓯越之民也 / Phu tiễn phát văn thân, thác tí tả nhẫm, Âu Việt chi dân dã / Như người Âu Việt, đàn ông cắt tóc, vẽ mình, đặt vạt áo về bên tay trái.
Sách đời sau chú đoạn Sử Kí trên khá nhiều, với mục đích trả lời câu hỏi “Âu Việt chi dân” là ai:
- Sách Ẩn nói theo Lưu Thị thì người Châu Nhai, Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam ngày nay) là
người Âu nên có từ Âu Việt.
- Sách Chính Nghĩa cho rằng họ là người Nam Việt của Triệu Đà.
Xét trên đặc trưng văn hóa được Sử Kí ghi nhận thì người Âu Việt, người Ư Việt hay Vu Việt
gần như là một. Để chứng minh Ư = Vu = Âu, cần phải có một công trình ngôn ngữ học truy
nguyên các ngữ âm Hán cổ, cũng như cách kí âm phương ngữ bằng Hán tự của người Trung
Quốc xưa. Chữ Âu ở đây rất quan trọng, nó có liên quan mật thiết với cổ sử Việt Nam, vì một trong những thuật ngữ mù mờ nhất trong cổ sử Việt Nam là từ Âu Lạc. Sử Kí đã dùng những chữ Âu sau:
1. Đông Âu: Xứ sở của Đông Âu vương tên Dao. Từ này xuất hiện trong các thiên: Hiếu Vũ
Bản Kỉ SK 12, SK 114, SK 22, SK 30.
2. Âu Lạc : Nói chung toàn khu vực Nam Việt, kể cả Mân Việt / SK 20, SK 113.
3. Người Đông Âu ở bên bờ sông Âu / SK 114, SK 22.
4. Âu Việt : Người Âu Việt / SK 43.
5. Âu nhân : người Đông Âu / SK 130.
6. Âu Thoát : Tên một vùng đất của Hung Nô phía bắc / SK 114.
Theo Thuyết Văn giải tự, Âu = 甌:小盆也從瓦區聲 / Tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh (Cái bồn nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu). Chữ Âu 甌 ghép bởi chữ Khu 區 (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa 瓦 là ngói, đồ gốm.
3 http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_043.htm
Xin đề nghị một liên tưởng dân dã:
U = nhô lên = đồi, núi ~ vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) = rú (âm Việt cổ chỉ núi, trong từ rừng rú).
Vú em = dưỡng mẫu
U = mẹ
Bu = mẹ già
Khu (đất) ~ u = mẹ.
Khu = vực = đất
Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu.
Ta có thể có mối tương quan giữa các âm như
sau: Ư = Vu = Khu = Âu = U = Bu = Mẹ = Đất = Rú (Núi = Non).
Biến âm giữa U sang Âu được ghi nhận khá nhiều: Chu / Châu , Thu / Thâu, U / Âu ( u sầu = âu sầu) ...
Như vậy, hoàn toàn tồn tại khả năng người Trung Quốc đã dùng Hán tự để kí âm phương ngữ vùng Giang Nam để nói về nước Ư Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc. Từ nước Việt bên giòng Trường Giang ấy mà liên hệ ngôn ngữ với nước Việt Nam hôm nay là rất khó thuyết phục, tuy nhiên đặc trưng văn hóa cắt tóc xâm mình tương đồng là không thể phủ nhận. Có chăng một cuộc di cư lớn, kéo dài hàng trăm năm của cư dân và quí tộc Ư Việt sau khi nước Việt bị nước Sở sáp nhập? Nếu hậu duệ Câu Tiễn từng được ghi nhận chạy loạn xuống Mân Việt (địa bàn tỉnh Phúc Kiến ngày nay), thì không có lí do gì không có những nhánh khác đi xa hơn như đến Quảng Đông, đảo Hải Nam, bờ biển Hợp Phố (Quảng Tây) và đồng bằng sông Hồng.
Âu Lạc – Lạc Việt
Khi hai dân tộc, hai nền văn hóa vì những biến động lịch sử vô tình hòa vào nhau, kết hợp l
àm một, nó sẽ để lại dấu tích trong ngôn ngữ. Đó sẽ là những tổ hợp từ sinh ra trên cơ sở phối hợp hai từ đồng nghĩa của hai nền văn hóa riêng biệt. Từ mới nọ tất nhiên phải đồng nghĩa với hai từ cũ. Ví dụ:
Chó = Má = Chó má (Thái + Việt)
Chia = Ly = Chia ly (Việt + Hán)
Vậy phải chăng Âu Lạc chính là hợp từ sinh ra bởi Âu và Lạc. Nếu câu chuyện này thuyết phục, thì ta có thể truy ngược được nghĩa Âu.
Tại hội nghị nghiên cứu thời kì Hùng Vương năm 1971, trong tham luận “Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc”, Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã giải thích Lạc nghĩa là nước. Hai ôngcũng liên hệ được Lạc với Nác (tức nước) theo phương ngữ miền trung Việt Nam. Bằng các phương pháp truy nguyên ngữ âm học, các chuyên gia ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay đã đi đến kết luận chữ Giang trong Trường Giang là Hán tự kí âm phương ngữ. Thật vậy, chữ Giang ghép bởi chữ Thủy (mang nghĩa nước, sông) và chữ Công (kí âm). Công có họ hàng với Krông, tức là dòng sông, dòng suối trong ngôn ngữ của cộng đồng người Đông Nam Á cổ và hiện vẫn tồn tại trong ngôn ngữ Tây Nguyên. Trường hợp tên gọi Mêkông4 (tiếng Thái, tức là mẹ của các dòng sông, dòng suối) cũng vậy. Ngày nay ở Tây Nguyên nhóm từ Đạ / Đak / Krông đều chỉ nước, sông, suối. Nếu Âu là Mẹ, thì sông Âu nơi người Âu Việt sống có thể hiểu là Sông mẹ, sông lớn, tương tự Mêkong.
Theo tôi từ Lạc không đơn thuần chỉ là nước mà nó đôi khi còn được sử dụng với nghĩa Xứ Sở với các dẫn chứng liên hệ như Negeri (tiếng của người Mianagkabau ở Malaysia), Nưgar (tiếng của người Chiêm Thành).
Như vậy, khi xâu chuỗi các nghiên cứu trên lại với nhau ta có một nhóm từ tố mang nghĩa rất giống nhau là : Đạ / Đak / Krông / Lạc / Nác / Nước / Nưgar / Negeri.
Giả định Âu Lạc = Đất nước đến đây đã trở nên không hề hoang tưởng. Thậm chí nó có thể mở ra cách giải nghĩa một từ có liên đới là Lạc Việt: tên gọi này thể hiện sự kết hợp hai chủng tộc là bản địa (Lạc) với con dân cũ của nước Việt di cư xuống. Ở góc độ nào đó, nó là sự rút gọn của Lạc – Âu Việt.
Nam Việt
Mở đầu thiên Nam Việt liệt truyện (Sử kí 1135) đã thấy Tư Mã Thiên dùng từ Việt với hàm í dân Việt: 秦时已并天下,略定杨越 置桂林, 南海、象郡, 以谪 徙民,与越杂处十三岁 / Tần thời dĩ tính thiên hạ, lược định Dương Việt trí Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận, dĩ trích tỉ dân, dữ Việt tạp xứ thập tam tuế. Nghĩa là: Nhà Tần, sau khi chiếm cả thiên hạ bèn lấy đất Dương Việt chia thành quận Quế Lâm, quận Nam Hải và quận Tượng, bắt những người bị tội đày xuống sống chung với người Việt, việc diễn ra đã được 13 năm. Về tổng thể, thời Tây Hán sách sử Trung Quốc đều thống nhất cho rằng chủ nhân nước Nam Việt là người Việt.
Chữ Việt trong tiếng Hán: 越. Thuyết Văn tự giải của Hứa Thận thời Đông Hán định nghĩa:
度也從走戉聲 / Độ dã tòng tẩu việt thanh (Nghĩa là vượt qua, bộ tẩu, âm như chữ Việt là chiếc rìu đá). Một chữ Việt khác đồng âm, đồng nghĩa nhưng dị tự vẫn hay được các bản in xưa nay dùng là 粵.
Trong ghi chép của Tư Mã Thiên, con người bản địa nước Nam Việt do Triệu Đà dựng lên là
người Việt. Tuy vậy, dường như chữ Việt này được rút từ từ ghép Bách Việt, chứ không dính dáng gì đến nước Việt thời Chiến Quốc trước đó. Bách Việt không phiếm chỉ một dân tộc, một đất nước. Nó gần như là một khái niệm và mang nặng hàm nghĩa văn hóa. Phổ quát nhất và thường được lập đi lập lại là đặc trưng “văn thân, đoạn phát / xăm mình, cắt tóc”. Theo Đông Việt liệt truyện (SK 114)6 và Việt vương Câu Tiễn thế gia(SK 41)7, vùng Mân Việt (Phúc Kiến) phía đông bắc Nam Việt là đất nước dưới quyền cai trị của hậu duệ Việt vương Câu Tiễn. Năm 202 TCN nhà Hán phong Vô Chư làm Mân Việt Vương, năm 192 TCN nhà Hán lại cắt một phần phía bắc Mân Việt phong cho quân trưởng Dao làm Việt vương (theo SK 41) hoặc Đông Âu vương (theo SK 114).
Thật khó khăn nếu muốn giải nghĩa Triệu Đà lấy tên Nam Việt với hàm í gì. Xét theo ngữ pháp tiếng Hán ta có Nam Việt = Đất nước phía nam nước Việt. Do đó người Việt ở nước Nam Việt có lẽ là người Bách Việt hơn là người Việt đồng chủng với cư dân Mân Việt? Điều này sẽ bị mấy câu văn vần của Thái sử công ở cuối thiên SK 113 phủ nhận, khi mô tả sự kiện Mân Việt đánh nhau với Nam Việt : Âu Lạc tương công, Nam Việt động dao / (Người, xứ) Âu Lạc đánh nhau, (Nước) Nam Việt xáo động. Hơn nữa, tục cắt tóc xăm mình cũng rất thịnh hành ở nước Việt của Câu Tiễn. Có không khả năng giai cấp lãnh đạo Mân Việt là người Việt (con cháu Câu Tiễn), trong khi đại bộ phận nhân dân là người Lạc?
5 http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_113.htm
6 http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_114.htm
7 http://www.guoxue.com/shibu/24shi/shiji/sj_041.htm
Việt nam
Sau khi diệt Nam Việt, có một cách đoạn nhiều trăm năm cái tên Nam Việt không được cả người Hán lẫn người Âu Lạc cũ dùng tới. Sau đây là biên niên và tên gọi Việt Nam8 ngày nay theo dòng lịch sử:
Hán: quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam
Tam quốc (thuộc Ngô) trở đi : Giao Châu
Đường : An Nam
Tống : An Nam, như việc phong Đinh Bộ Lĩnh làm An Nam quận vương. Năm 1017 nhà Tống phong Lý Công Uẩn Nam Bình Vương. Năm 1164 nhà Tống lại dùng danh xưng An Nam Quốc Vương cho vua Lý.
Minh: An Nam, năm 1428 Lê Lợi thay Trần Cao và được nhà Minh phong làm An Nam quốc vương, sau đến nhà Mạc được phong An Nam đô thống sứ.
Thanh: An Nam, như đã phong cho vua Quang Trung là An Nam Quốc vương.
Đến năm 1802, lần đầu tiên bắc triều mới chấp nhận để chữ Việt vào quốc danh để thành
Việt Nam. Tai sao bắc triều tránh dùng chữ Việt, có những lí do sau:
- Sợ nhầm lẫn với nước Nam Việt thời Tây Hán hoặc nước Việt thời chiến quốc.
- Chữ Việt nhắc đến một quốc gia độc lập và tự chủ, trong khi bắc triều luôn muốn áp đặt
đô hộ trực tiếp hoặc thống thuộc gián tiếp mảnh đất phương nam này như một thuộc
quốc.
- Chia để trị là một đối sách mà các nước đế quốc ưa dùng. Quá trình Hán hóa các dân tộc
thiểu số ở Hoa Nam bắt buộc phải thủ tiêu thuật ngữ Bách Việt. Hán hóa chính là xâm
lăng văn hóa, thôn tính văn hóa, bước tiếp theo của vũ lực quân sự.
- Sau khi nước Việt thời chiến quốc và nước Nam Việt của Triệu Đà đã bị gộp vào Hán
tộc, bắc triều gọi các nước phương nam là Nam cũng có thể xác nhận cách nhìn nhận phi
Hán trong văn hóa, con người cũng như cương vực của khu vực này. Ngược lại với bắc triều, các phong trào giành độc lập cũng như các vương triều của cư dân Việt Nam xưa có xu hướng chuộng chữ Việt:
Năm 544 Lý Bí tự xưng Nam Việt đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.
Năm 549 Triệu Quang Phục xưng là Việt Vương.
Năm 939 Ngô Quyền mở nước Đại Việt.
Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
Năm 1054 Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt.
Năm 1400 Hồ Quí Ly lấy tên Đại Ngu.
Năm 1427 Lê Lợi dùng lại tên Đại Việt.
Năm 1802 Nguyễn Ánh lấy tên nước là Nam Việt nhưng Thanh triều đổi thành Việt Nam.
Năm 1838 vua Minh Mạng dùng lại tên Đại Nam.
Năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tên nước là Việt Nam.
Trường hợp dân tộc Tráng (Choang): Không riêng gì người Việt Nam, người Tráng ở Quảng
Tây cũng có một lịch sử chống bắc thuộc dai dẳng và bền bỉ. Từ thời Đường, các lãnh tụ khởi nghĩa của họ đã xưng vương và lấy những danh xưng có liên quan đến từ Việt và từ Nam như: Trung Việt Vương, Nam Hải Vương, Nam Việt Vương. Ngang thời Lý ở Việt Nam, Nùng Trí
Theo Việt Nam niên biểu, Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim. Bản điện tử của viethoc.com. Cao xuất thân từ tỉnh Cao Bằng đã xây dựng nước Đại Lịch Quốc, sau lại đổi thành Nam Thiên Quốc với cương giới gần phủ kín hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông Có hai khuynh hướng chủ đạo thiết lập nền độc lập ở các dân tộc phía nam Hoa Hạ:
1. Lãnh đạo từ phương bắc xuống (hoặc hậu duệ nhiều đời của họ), hòa đồng với người
phương nam, phát triển văn minh nhà nước tập quyền trên cơ sở thống nhất các bộ lạc tự trị, các vùng quyền lực bản xứ: Tổ tiên Câu Tiễn, Triệu Đà, Hậu duệ Câu Tiễn, Sĩ Nhiếp, Lý Bí, Trần Thủ Độ, Hồ Quí Ly…
2. Người bản xứ đứng lên tự cởi ách đô hộ, xưng vương: Hai Bà Trưng, các tù trưởng người Tráng ở thời Đường, Nùng Trí Cao, Lê Lợi…
Không kể Lê Lợi xây dựng vương triều từ nền móng chính trị sẵn có, ta thấy rõ khuynh hướng thứ nhất phổ biến hơn, thành công hơn. Trừ Hồ Quí Ly muốn ngang hàng bắc triều bằng cách đổi tên nước thành Đại Ngu (với giải thích ông là hậu duệ vua Nghiêu khai quốc Hoa Hạ), Sĩ Nhiếp tìm sự độc lập trong khuôn khổ hẹp, đa phần các lãnh tụ chọn từ Việt cho vương quốc mình. Các lí do hữu quan:
- Phần nào đó tầng lớp lãnh đạo chính trị phương nam có huyết thống phương bắc, tác động của yếu tố này sẽ khiến họ chủ động thực nghiệm văn hóa chính trị tiến bộ trong khu vực vào quốc gia họ xây dựng trên mảnh đất phương nam.
- Dư âm nước Việt tiểu bá phương nam của Câu Tiễn thời chiến quốc có thể là biểu trưng
tinh thần, khích lệ các lãnh tụ tự tin và nỗ lực bồi đắp độc lập, tự chủ, thâu tóm quyền lực. Trong í nghĩa ấy, nước Việt mới, dân tộc Việt mới vẫn chứa nội dung phi Hán.
- Một cách tự nhiên, từ Việt dần dần hóa thạch vào văn hóa chính trị phương nam với í
nghĩa li khai, bất khuất. Nó mang tính chính thống hiển nhiên trong đối nội và đối ngoại của bất cứ chế độ nào.
Kết luận
Tóm lại, Việt 越 là một từ cổ, một từ bình thường trong bể từ vựng giữa đời sống văn minh Hoa Hạ. Nó được áp vào tên nước thời chiến quốc với 10 í nghĩa:
1. Sách Cối Kê kí cho rằng Ư Việt là tên của một hậu duệ vua Hạ Vũ, đến Cối kê lập nên
nước Việt để tiện việc thờ tự Hạ Vũ (vốn mất và được chôn cất tại Đại Việt).
2. Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy
chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt.
3. Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm
như thế, dùng từ Việt để ghi lại.
4. Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác
vòng lễ nghĩa Hoa Hạ. Vì nhiều lí do (một số đã dẫn ở trên) ngày nay Việt Nam đã trở thành tên gọi chính thống của dải đất hình chữ S bên bờ Tây Thái Bình dương. Để được như thế, hai từ Việt và Nam đã trải qua một quá trình vận động bổ xung ngữ nghĩa hàng ngàn năm, với biết bao thăng trầm của lịch sử.
Một lần nữa ta thấy dấu ấn của Triệu Đà ở đây, như một người gieo mầm văn minh chính trị tiến
9 Đoạn này tham khảo Journal of Southeast Asian Studies, Vol. XVIII, No. 2, September 1987. Người
Choang các dân tộc ít người, vùng biên giới Việt – Hoa trong triều đại nhà Tống. JEFFREY G.BARLOW. Bản dịch của Ngô Bắc.
10 Có tham khảo Văn Minh Lạc Việt – Nguyễn Duy Hinh – NXB VHTT 2004. bộ phương bắc vào khu vực có đất nước Việt Nam hôm nay.
Nếu có thể phân biệt được con người huyết thống (sinh học) và con người văn hóa trong tổng thể con người nói chung của nhân vật lịch sử Triệu Đà, thì rõ ràng không thể gọi ông là con người văn hóa Hán tộc. Đánh đồng con người huyết thống Hán của ông với con người văn hóa, một thứ văn hóa khởi sinh bởi sự tương tác văn hóa Tiền Hán – Tiền Việt mà ông là nhạc trưởng, là việc làm đành tình đoạn lí.
Tôi tin rằng, gần như đã đến lúc người Việt Nam đặt câu hỏi họ là người Việt, người Nam, người Việt Nam hay người Âu Lạc? Văn minh Việt Nam hôm nay đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ về nhận thức quá khứ, với chiều hướng dân trí và kinh tế đi lên, sáng sủa hơn bao giờ hết trong cuộc đời văn hiến đã khá dài của mình. Nó cần định hình và đồng thuận những giá trị mới của lịch sử, trên căn bản hài hòa xưa – nay, trước – sau và thấm đẫm tinh thần khoa học, trung trực. Chắc chắn quá trình vượt thoát, thực thi tinh hoa tự chủ, độc lập truyền thống trong bối cảnh chuyển biến thời cuộc khác trước rất nhiều, sẽ tiềm ẩn nhiều giải pháp hứa hẹn thú vị và lớn lao.
Thảo Điền 3.2007
Tuesday, July 14, 2009
HỆ THỐNG TIỀN TỆ Ở MỸ
Lần theo mê-lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ
B.S. Nguyễn Lưu Viên
------------ --------- --------- --------- --------- --------- ---
Lời nói đầu
Cả năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc mắc nợ của chánh phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của Ông Greenspan. Tôi không có học ÉcoPo của Pháp, không có học
MBA của Mỹ nên mù tịt. Nhưng vì tò mò muốn hiểu biết, nên tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi đó đây. Thì mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê-lộ có đường hầm, [un vrai labyrinthe avec des souterrains] một con đường máng dện chằng chịt mà nếu đi không có bản chỉ dẫn thì sẽ dể bị lạc.
Rồi tôi nghĩ rằng trong số độc giả của Y Tế Nguyệt San chắc cũng có một ít bạn đọc mù tịt= như tôi, nhưng không có thì giờ để nghiên cứu đó đây như tôi, nên tôi viết bài này tóm lược và giản-dị -hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đã kéo dài theo lịch sử của Hoa-kỳ, để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ vấn đề về đồng dollar là một thực thể mà mình phải đ6í phó hằng ngày. Tôi sẽ dùng phương pháp hõi và đáp [H & Đ] để dẫn đường quý bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy.
Tôi xin lưu ý quý bạn: Vì trong bài có vài ba cụm-từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên tôi sẽ viết tắt các cụm từ ấy như sau: FED là Federal Reserve, CPLB là Chánh Phủ Liên Bang, HCQHK là Hiệp Chũng Quốc Hoa-Kỳ USA và T.T. là Tổng Thống.
------------ --------- --------- --------- --------- ------
I- Tạo ra tiền [create money].
H-: Dollar là tiền chính thức của HCQHK. Vây ở bên Mỹ cơ quan nào có quiyền phát hành dollar?
Đ-: Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lý là Bộ Tài Chánh của CPLB. Nhưng trên thực tế thì không hẳn như vậy. Bộ Tài Chánh của CPLB chỉ có quyền phát hành “coins” nghĩa là đúc [mint] các dồng tiền One Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar.
H-: Vậy thì cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar?
Đ-: Chỉ có Federal Reserve [FED] mới có quyền phát hành giấy xanh dollar.
H-: Tôi thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có hình của một ông Tổng Thống Mỹ, cũng có chữ ký tên của “Treasurer of the United States”, và của “Secretary of the Treasury” mà không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là gì ?
Đ-: Vâng, coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “ a paper acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng là một tờ giấy nợ.
H-: Ai nợ ai?
Đ-: Chánh Phủ Liên Bang nợ FED.
H-: Sao lại có chuyện đó?
Đ-: Số tiên CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên CPLB phải mượn. Mượn ai? Mượn FED là cơ quan duy nhứt có quyền phát hành tiền dollar. Mượn bằng cách nào? Bằng cách cho phép Bộ Tài Chánh [The Treasury Department] in giấy nợ dưới hình thức “Federal Bonds” [là giấy IOU (I Owe You) trong đó chánh phủ cam kết sẽ trả lại với tiền lời] [mà bách-phân lời (% interest) là do FED. chủ nợ, quyết định]. FED chấp nhận và in [thí dụ như một tỷ dollars $1 billion] đưa cho chánh phủ. Thế là chánh phủ [tức là quốc gia, là dân Mỹ] nợ FED một tỷ dollars với tiền lời. Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất lên nên đến năm 1995 số tiền nợ là $5 trillion [1 trillion là 1 ngàn tỷ] và đến ngày 16-th.3-2006 là hơn $8,21 trillion.
H-: FED là một cơ quan của Liên Bang, vậy CPLB mà nợ FED thì có khác gì là “Tôi nợ Tôi”.
Đ-: Khác, vì FED là một cơ quan mang tên là “Liên Bang” [Federal] nhưng không phải của Liên Bang. FED là một công-ty độc lập của tư-nhân [a corporation independent privately owned].
H-: Privately owned thì ai own nó?
Đ-: Federal Reserve [FED] gồm có 12 cái Fed bank địa phương [twelve regional federal reserve banks] mỗi cái là sở-hữu của những nhà bank buôn bán tư thành viên của cái Fed địa phương đó Các Fed địa phương có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas.
Fed Bank của New York có đa số cổ phần [53% of shares]. Mà trong Fed bank của New York, Citibank và J.P.Morgan Chase Co nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia-đình Rockefeller và J.P. Morgan Chase Co là của gia-đình Morgan. Hai gia đình này và gia đình Carnegie với gia đình Rothschild là thành phấn quan trọng nhứt của một nhóm người mà hoc giả Mỹ gọi là “the Robber Barons” [những Nam-tước Trộm Cắp].
H-: Nhưng trong Ban Quản Trị [Board] của FED ở Washington có Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [the Treasury Secretary] và Ông Giám Sát Ngân Khố [the Comptroller of Treasury] là nhân viên chánh phủ.
Đ-: Vâng, vì vậy mà trên các giấy xanh dollar có chữ ký tên của hai ông này. Và T.T. Mỹ cũng bổ nhiệm [với sự chấp thuận của Senat] ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị [Chairman of The Governing Board] của FED, cho nên FED được coi như là một cơ-quan “gần như chính thức” [ quasi-governmental] . Hội Đồng này gồm có 7 người, với nhiệm kỳ là 14 năm, mà Tổng Thống chỉ có quyền thay thế một người mỗi hai năm.
Như vậy, thí dụ như có một ông T.T. muốn sữa đổi FED theo ý của ông, thì trong nhiệm kỳ 4 năm của T. T, ông chỉ thay thế được có 2 người [vì ông chỉ có quyền thay thế một người mỗi 2 năm.] Thôi thì cho rằng ông ấy là một ông T. T. tài ba lổi lạc, vượt qua được những khó khăn và những chống đối mà ông đã gây ra [vì quan niệm muốn sửa đổi FED], trong hàng ngũ dân-biểu và nghị sĩ của cả hai đảng, trong chính trường và trong media, để ông được đắc cử một nhiệm kỳ thứ hai, thì ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa trong Governing Board (nếu được the Senate chấp thuận) thì cho đến gần cuối nhiệm kỳ 2, ông mới đưa ra được một dự luật sữa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có được số phiếu cần thiết ở hai viện để trở thành một đạo luật trước khi ông phải rời khỏi Nhà Trắng.
Mặt khác ban Quản Trị [Board] không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed bank địa phương phải theo chánh sách của Fed Bank New York nắm đa số cổ phần. Vã lại FED kể từ khi thành lập cho tới nay, chưa bao giờ bị chánh phủ “audit”[ soát xét ] vì năm 1975 dự luật [bill] H.R.4316 cho phép chánh phủ “audit” FED, được đưa ra Congress, nhưng dự luật không qua được vì không đủ phiếu.
Hảy xem như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty [corporate director] cho J.P. Morgan, thì được T.T. Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ Tịch của FED, giử chức đó gần 19 năm, đến năm 2006 dưới thời T.T.George W. Bush mới về hưu. Nghỉa là đã làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị FED với bốn T.T. Mà trong lúc tại chức Ông không bao giờ có hợp báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là không có việc hỏi han chất vấn lôi thôi.
H-: Trở lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, còn quyền phát hành giấy xanh là của FED, mà FED thì bị các nhà bank tư nắm. Vậy trong tổng số tiền của Mỹ, tỹ-lệ của mổi thứ tiền là bao nhiêu?
Đ-: Tiền coin của CPLB đúc chỉ là lối một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số tiền giấy xanh của FED phát hành, thành ra cái được gọi là “tiền sờ thấy được” [tangible currency] chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp [American Money Supply]
H-: Sao kỳ vậy? Còn 90% kia là tiền gì ở đâu ra?
Đ-: Phần 90% còn lại là tiền ma [phantom money].
H-: Tiền ma là tiền gì?
Đ-: Là tiền không có thật, là tiền được tạo ra từ chổ không có gì hết [money created from nothing], do cái trò ảo-thuật cho vay [gọi là “loan”] tạo ra.
H-: Thật sự tôi không hiểu được.
Đ-: Thực ra thì cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Trò ảo thuật tạo ra tiền từ con số không [create money out of nothing] dựa trên cái gọi là “fractional reserve banking” do đao-luật tạo ra FED [Federal Reserve Act] cho phép. Theo đó thì khi mà nhà bank có trong kho của nó một số tiền X là tiền thật [hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh] được coi như là để dự-trữ [reserve], thì nó có quyền phát ra 10 X [tức là có 9 X tiền ma, không có bảo đảm reserve].
Thí dụ như tôi gởi vào nhà bank trong checking account của tôi $ 10,000 thì nhà bank để số tiền đó trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra $100,000 [tức là trong đó có $ 90,000 là tiền ma, vì không có reserve bảo đảm] Cũng như thế, Anh B để vào bank trong saving account $ 20,000, thì nhà bank có quyền phát ra $200,000 [tức có $180,000 là tiền ma]. Tổng cộng nhà bank có quyền phát ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma. Rồi khi Anh C đến mượn nhà bank $300,000 [để mua nhà, sửa nhà hay làm gì khác] thì nhà bank cho ảnh mượn [dưới hình thức loan] $300,000 đó. Anh C sẽ trả cho nhà bank số tiền đó cộng với lời [x %] dưới hình thức mortgage hằng tháng, trong 15 hoac 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà Anh C có được nhờ lương của Anh C, hoặc nhờ việc làm [như phòng mạch] của Anh. Tức là nhà bank, nhờ cái ảo-thuật của “loan” đã “create money out of nothing”.
Thí dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẩu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là hãng, là cơ sở sản xuất, thì tiền phải là tới số triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hãng, xưởng v.v. cân tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới hình thức “loan” thì không có gì lạ khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ [american money supply] năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật [tangible currency] chỉ có $ 1.4 trillion, còn $8.3 trillion là tiền ma. Và sau này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc dùng credit card [Visa, Master Card, American Express v.v.] với một lải xụất [% interest] còn cao hơn gắp bội.
II- Một chút lịch sử.
H-: Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?
Đ-: Anh nói là “quái thai” thì cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví FED như một con “Hydra”. Theo từ-điển Hydra là một con rắn có chín đầu [trong thần thoại] hể chặt đầu này thì nó mọc đầu khác, và nó có nhiều cái vòi [tentacles] rất dài để bắt mồi từ xa. FED [con hydra dưới hình thức hiện tại] sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do Tổng Thống Woodrow Wilson ký [về sau ông hối tiếc]. Còn từ đâu và tại sao có nó, thì phải xem lại hết cái lịch sử của HCQHK vì trong dĩ vãng nó cũng đã bị chặt đầu nhiều lần, mổi lần lại sống lại với một tên khác.
H-: Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?
Đ-: Tôi sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm trang trong mỗi sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc.
Ở Trung học chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc. Đến năm 1774, để phản đối việc mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà [tea tax] một buổi tiêc trà được tổ chức ở Boston [Boston Tea Party]. Trong dịp đó một số người Mỹ giả làm người Da-đỏ nhảy lên tàu chở trà và vất các thùng trà xuống biển. Bị chánh quyền cai trị đàn áp, những đòan dân quân được thành lập để chống trả lại, và Ông Benjamin Franklin triệu tập một Hội Nghị gọi là Congress ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên Ngôn Quyền Của Người Mỹ Có Đống Thuế” [Delaration des Droits du Contribuable Americain] năm 1774. Sau đó, với sự chiến thắng của đoàn dân quân của Massachusetts, Congress cho ra Bản Tuyên Ngôn Độc Lâp [Déclaration d’Indépendance ngày 4-th7-1776.] Rồi dưới sự chỉ huy của Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh dưới quyền Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Hòa Ước Versailles năm 1785 Anh-Quốc công nhận cho HCQHK độc lập.
Nhưng sau này một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều.
1-Vì không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi hàng hóa trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là Ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân, vì dân, không tìm cái lời cái lợi trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu thì phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để chánh phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát [inflation] hay sự kém phát [deflation] nên giá vật và giá công [product and service] vẫn được đều hòa và thăng bằng Nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc mà ở London của mẫu-quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người đi lang thang lêu lổng [The streets are covered with beggars and tramps]. Thì các chủ nhà bank Anh [the British bankers] lobby triều đình, nên năm 1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coins” của mẩu-quốc [do các nhà bank Anh đã hợp thành một thể dưới tên là Bank of England phát hành]. Vua George III kế vị vua cha từ năm 1752 giữ nguyên lênh ấy. Thì các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. Vì thiếu tiền coins [do mẩu quốc siết để tạo sự kém phát deflation], người làm ruộng hay trồng tỉa không có đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai gặt, trái không ai hái. Người có hảng xưởng không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không được sản xuất. Cả dân trong một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo đói không gia đình nào không bị ảnh hưởng, nên họ đứng lên chống đối chánh quyền và đó là nguyên do sâu xa của cuộc Cách Mạng Mỹ năm 1774. Cái”Boston Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái bình.
2- Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy được gọi là “the Continental” dưới hình thức IOU [I owe you.] nghĩa là giấy nợ mà Chánh Phủ Cách Mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coins [vàng hay bạc] sau này. Lối chừng 200 triệu dollars dưới hình thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cho cuộc chiến giành độc lập. Thì mẫu quốc phản ứng bằng cách in tiền giả để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập tiền “the Continental” hầu như không còn giá trị gì hết. Thế là mẫu-quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt trận kinh tế [dính liền với tài chánh].
3- Vì thấy tiền Continental gần như không còn giá trị, nên các nhà “Quốc Phụ Lập Quốc [the Founding Fathers], không còn tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến Pháp được viết ra, các ngài không nói tới tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” [thay vì “create money”] và có quyền vay tiền dựa trên uy tín của chánh phủ [“and to borrow money on the credit of the United States]. Thì các nhà bank của mẫu-quốc Anh củ, là các ngân hàng Anh quốc tư nhân; xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác Hòa-lan [Amsterdam] nắm và chính các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to tát đó [the enormous loophole] mà nói rằng chiếu theo Hiến Pháp chánh phủ chỉ có quyền phát hành coins, và nhà bank có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coins thì cồng kềng và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả lại đúng số coins [bằng vàng hay bạc] ghi trên giấy, thì dân chấp nhận coi những giấy ấy như là tiền.
4- Rồi với thời gian qua, các nhà bank để ý rằng rất ít người trở lại nhà bank để đòi lấy lại đồng tiền coins. Trung bình hằng năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì không bao= giờ thấy đến đòi lấy lại tiền coins. Thì nhà bank nghĩ rằng mình có thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve” dẫn tới việc phát hành tiền ma.
5- Tổng Thống Thomas Jefferson (1801-1809) vị T.T. thứ ba của Mỹ thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên đòan các nhà bank [the banking cartel] là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu của con hydra” và Ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của mình, thì trước hết bằng sự lạm phát [inflation] rồi bằng sự kém phát [deflation] các nhà bank và các công ty [corrporations] sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân, thì con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đã chiếm được.” Nên năm 1811 Congress không chấp nhận tái ban cho đặc quyền [renew the charter] cho First U.S.Bank. Thì chiến tranh với Anh quốc [the War of 1812] bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia đến sự lạm phát [inflation] và nợ nần [debt]. Vì những lý do đó, Tổng Thống James Madison (1809-1817) vị T.T. thứ tư của Mỹ, phải ký một đặc quyền 20 năm [a twenty year charter] cho Second Bank of The United States vào năm 1816.
6- Tổng Thống Andrew Jacksaon (1829-1837) vị T.T. thứ 7 của Mỹ veto dự luật của Congress cho phép tiép tục ban đặc quyền cho Second Bank of the United States. Trong bản veto Ông viết:” Không có cái gì nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, lấy tiền của dân ta, và bắt giữ cả ngàn công dân của chúng ta phải lệ thuộc, thì còn đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”.
Nhưng Ông cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của cuộc chiến với nhà bank nên Ông nói: “ Con hydra của sự đồi bại mới bị chận lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [Treasury Secretary] mới của Ông, chuyển hết tiền deposits của chánh phủ từ Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang [state banks] thì ông này từ chối không làm. Ông T.T. cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác Ông này cũng từ chối không làm thì T.T. Jackson bổ nhiệm người thứ ba, Ông này thi hành lệnh nên T.T. Jackson vui mứng mà nói: “ Tôi đã trói được con quái vật rồi” Nhưng ông chủ nhà Bank, lobby được Senat không chấp thuận người được Tổng Thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát [deflation] bằng cách hồi [call in] các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, nên một sự hoảng hốt tài chánh [a financial panic] xẩy ra trong dân chúng, thì báo chí lại đổ tội vào đầu Tổng Thống Jackson. Nhưng may thay Ông Governor của Pennsylvania [là nơi có trụ sở của nhà bank] xuất hiện để ủng hộ T. T. Jackson và phê bình nhà bank rất gắt gao và kế hoạch làm lũng đọan kinh tế của nhà bank bị phơ i bày trước công chúng.
Cho nên đến tháng 4- 1834 Hạ Viện [House of Representatives] với 134 phiéu thuân và 82 phiéu chống, đã hủy bỏ việc tái ban đặc quyền [rechartering] cho Second U.S.Bank. Đến tháng 1- 1835 thì T.T. Jackson trả được hết các nợ của chánh phủ. Rồi ngày 30-th.1- 1835, khi T.T. Jackson đến Capitol để dự tang lể của Dân-biểu Warren R. Davis của South Carolina thì ông bị mưu sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong rotunda cách Ông có sáu feet bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi T.T. Jackson đóng cửa nhà bank trung ương [Central Bank] thì tiền giấy được dùng là những banknotes của của các nhà banks tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại bằng vàng hay bạc chớ không phải là tiền của quốc gia [national currency].
7- Sau T.T. Jackson, ông tổng thống dám đánh con hydra tiền tệ là T.T. Abraham Lincoln (1861-1865), vị T.T. thứ 16 của Mỹ. Liền sau khi Ông đắc cử và trước khi Ông nhậm chức thì Nội Chiến Nam-Bắc [The Civil War] bùng nổ (1860) vì vấn đề “Nô-lệ” [Slavery]. Các nhà bank của vủng Đông [tức là thuộc về Union] đề nghi cho chánh phủ vay $150 triệu với bách phân lời quá nặng từ 24 tới 26%. T. T. Lincoln từ chối và quyết định chánh phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức là “United Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback” vì phía sau in bằng mực màu xanh lá cây. Tiền được quan niệm không phải là một giấy nợ [IOU] với cam kết trả lại bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao cho xã hội. Công lao sản xuất [product] từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật dụng, công lao dịch vụ [service] từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an ninh trật tự, và gìn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và quan trong quân đội, công lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thơ ký đến giam đốc đến nguyên thủ quốc gia. Lãnh lương là lãnh giấy chứng nhận công lao, để mua thức ăn đồ dùng là trao giấy chứng nhận công lao của mình để nhận lấy món hàng được sản xuất với công lao tương đương của người bán.
Vì tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân, và vì dân, chớ không phải cho hay vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời Ông Benjamin Franklin lúc Hoa kỳ còn là 13 thuôc địa phồn thịnh, nên trong có bốn năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng lọan Miền Nam được Anh giúp tiền, và việc giải phóng bốn triệu người nô lệ, T.T. Lincoln đã thực hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như: xây dựng và võ trang một quân đội lớn nhứt thế giới lúc bấy giờ, biến Hoa-kỳ thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ [industrial giant], kỹ nghệ thép [steel industry] được thành lập, một hệ thống hỏa-xa xuyên luc-địa dược xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy viêc chế tạo máy và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những bộ máy hành chánh cho các vùng Miền Tây, tăng múc sản xuất lao động [labor productivity] lên từ 50 đến 75 %. Tất cả những viêc ấy thục hiện được là nhờ có một việc rất giản dị là chính chánh phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con hydra tiền tệ đã bị T.T.Lincoln chặt.
Nhưng đến ngày 14-th.4-1865, thì một kịch-sĩ tên là John Wilkes Booth ám sát T.T. Lincoln trong lúc Ông đang xem tuồng hát Our American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở Washington. Thế là con hydra lại có cơ mọc đầu lại. Và đầu nó mọc lại thật, vì dân vẩn thích có tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng tiền dollar vàng. Thì các nhà bank phát hành banknotes bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknotes đó như tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hydra mới xuất hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913.
III- Tân hydra chào đời.
H- : Tai sao có Luật đó?
Đ-: Vì năm 1907 xẩy ra một cuộc “Kinh Khủmg Tài Chánh” [a Financial Panic] nên năm 1908 T.T.Theodore Roosevelt (1901-1909), vị T.T. thứ26 của Mỹ, cho thành lập cái National Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề tài chánh. Chủ tịch của Commission đó là Ông Nghị Sĩ Nelson Aldrich [bên ngoại của David Rockefeller Sr.]. Ông Aldrich dẫn cả commission đi tour sang Âu-châu để nghiên cứu trong vòng hai năm. Rồi khi trở về, Ông lập lên, một cách hòan tòan bí mật, một nhóm bị gọi là “The First Name Club” vì cấm triệt để không được nhắc tới Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm được cũng không biết là ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí biết là có những ai. Nhóm đó gồm có một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới tài chánh và ngân hàng. Trong số đó người sẽ đống vai quan trọng nhất là Ông Paul Warburg (1868-1932) người gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, được quốc tịch Mỹ năm 1911, và là thành viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New york [thuộc vào tài sản của Rothschild].
“First Name Club” được triệu tâp đến một hòn đảo nhỏ bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở Georgia, hợp trong chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và luật pháp tiền tệ [the banking and currency legislation] sẽ trình cho Congress.
H-= : Trong dự luật có cái gì là đặc biệt?
Đ-: Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: vì dân đã quá ghét. nên phải tránh cho kỳ được cụm-từ “Central Bank “ rồi phải làm sao cho dân tưởng rằng cơ quan này là của chánh phủ, do nhân viên chánh phủ điều khiển vì vậy mà có danh từ “Federal” và “Reserve“ [chớ không phải là Central Bank] và có Governing Board mà ông chủ tịch là do T.T. bổ nhiệm, và trong đó có hai nhân viên chánh phủ, mà trong thực tế thì Governing Board không có điều khiển được chánh sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để che giấu thực ý: như trong Lời Mở Đầu [Preamble] của dự luật nói: Mục đích của luật là để cho FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dãn” [to furnish an elastic currency] nghĩa là gì?
Trong thực tế nghĩa là tiền mà nhà bank đã có thì nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng lên. Rồi như danh từ “tái chiết khấu “[rediscounting] nghỉa là gì? Trong thực tế nghĩa là: một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không cần chờ cho tới khi các loan trước hết hạn. Kết quả là Luật cho phép một nhà bank trung ương tư [a private central bank] tạo ra tiền từ chô không có gì hết [create money out of nothing] rồi cho chánh phủ vay số tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bôm phòng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ý muốn [control the national money supply, expanding or contracting it at will.]
H-: Thế mà không có Ông Nghị sĩ hay Dân biểu nào thấy sao?
Đ-: Có chớ. một số thấy và la làng lên .Như ở Hạ Viện Dân Biểu Charles Lindbergh Sr. [bố của phi công trứ danh Lindbergh] nói:” Luật tạo ra FED là một cái tội pháp luật tệ hại nhứt của mọi thời đại Hệ thống tài chánh đã bị lật lại cho một nhóm ngừơi chỉ có biết lợi dụng Hệ thống là của tư-nhân, được hướng dẫn về muc tiêu duy nhứt là lấy cho được những cái lợi tối đa từ việc xử dụng tiền của người khác “.
Và cũng còn một số dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để đánh bại số dân biểu và nghị sĩ đã bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong nhóm Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York ngày 25-th.6-1863 rằng: “Số nhỏ người hiểu cái hệ thống là gì, thì, hoặc là vì thấy có lợi cho mình, hoặc là vì đã tùy thuộc vào những ân huệ đang được hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. Còn nhóm đa số người không có đủ trí khôn để hiểu, thì sẽ chịu cái gánh nặng mà không than phiền”
Bởi vậy cho nên ngày 18-th.9-1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và 85 phiếu chống, rồi lên Thượng Viện thì ngày 19-th.12-1913, dự luật được chấp thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến đây lại có một việc lạ nhứt chưa bao giờ xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là trong cái bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng Viên không đồng ý nên đã sửa lại. Thì sau khi Thượng Viên biẻu vquyết, hai Viện phải ngồi chung lại để sữa lại sao cho cả hai bên đều đồng ý. Thế mà việc đó được thực hiện chỉ có trong một weelend. .Cho nên ngày Thứ Hai 22-th.12-1913 dự luật được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống rồi, cùng ngày, sang Thượng Viện được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và 23 phiếu chống. Và T.T. Woodrow Wilson (1913-1921), vị T.T.thứ 28 của Mỹ ký thành Luật ngày hôm sau Thứ Ba 23 th.12-1913.
Tất cả những việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và truyền thống của Quốc Hội và của Chánh Phủ Mỹ là không bao giờ Lập Pháp Congress [Thượng và Hạ Viện] thảo luân và biểu quyết một Dự Luật vào lúc gần Noel, để cho Congress “recess” [thường thường là kể từ 15, 17 Dec.] và các Nghị Sĩ và Dân Biểu về quê của mình ăn mừng Christmas và New Year, và không bao giờ Hành Pháp [Chánh Phủ] ký một Đạo Luật vào Noel để cho T.T. về nhà riêng hay “ranch” của mình ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà kỳ này Thượng Viên hợp lại, thảo luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19 Dec. Rồi cả hai viện làm việc với nhau weekend 20-21 Dec, để ngày Thứ Hai 22-Dec cả hai viện, hơp lại, thảo luận và biểu quyết dự luật, và ngày Thứ Ba 23 Dec. T.T. ký thành Luật.
Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ Viện: “Dự luật này thành lâp cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới. Khi mà T.T. ký cái dự luật này (thành Luật), thì cái chánh phủ vô hình của Mãnh Lực Tiền Tệ sẽ được hơp-pháp-hóa. Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng mà rồi sự biết được chuyện chỉ được dời lại vài năm sau mà thôi”. Trong lúc đó thì báo chí [đã ở trong tay của “Mãnh Lưc Tiền Tệ”] thì ca tụng hết lời. Báo New York Times viết bằng chữ lớn ở trang đầu: “Tổng Thống Wilson ký Dự Luật Tiền Tệ Sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp mọi giai câp.
H-: Thế là con hydra được khai sanh là đứa con hơp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước?
Đ-: Hay đúng hơn thì phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”.
H-: Nói gì lạ vây, đứa em song-thai nào?
Đ-: Khi nhóm của Nghị Sĩ Nelson Aldrich có Ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật FED để trình cho Congress, họ đã tiên đóan rằng với sự áp dụng luật này thì CPLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tím cách làm sao cho phép chánh phủ đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED. thì họ kèm theo dự luật FED một Tu-Chỉnh Hiến Pháp [là the Sixteenth Amendment] cho phép CPLB đánh thuế income tax vào dân. Lúc ấy bản văn của Tu-Chỉnh chỉ có một trang giấy và nguyên Bộ Luật về thuế má chỉ có14 trang mà bây giờ thì nó dày đến 17,000 trang, cũng như nợ của chánh phủ do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là $8.5 trillion.
H-: Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao?
Đ-: Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của mình mà thôi.
H-: Đã được hơp-pháp-hóa rồi, con hydra còn phá phách gì nữa không?
Đ-: Nói là phá phách thì không hẳn là phá phách, nhưng khi được hơp-pháp-hóa rồi thì FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai nạn cho dân.
H-: Tai nạn gì?
Đ-: Cuộc Đại Khủng Hoảng [The Great Depression] năm 1930.
H-: Bằng cách nào?
Đ-: Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua trò ảo-thuật “loan”. Để khuyến khích dân vay tiền, nên FED hạ thấp bách phân lời [% interest] thì dân ùn ùn vay loan và loan để có tiền tiêu xài thả ga. Thì nhà bank thảy vào nền kinh tế quốc gia một số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát [inflation]. Rồi nói là để kềm hảm sự lạm phát, thì lại siết chặt việc cung cấp tiền, thu hồi các loan đả phát ra, không cho vay loan mới, thì dân thiếu nợ phải vội vàng bán nhà cửa ruộng đất để trả nợ, nên những người có liên hệ với “Mãnh Lực Tiền Tệ [Monetary Power] có tiền mua những bất động sản ấy với giá rẻ mạt. Còn con cháu những người thiếu nợ thì trở nên vô gia cư vô nghề nghiệp đi lang thang thất thểu ngoài đường như hồi Mỹ còn là 13 thuộc địa dưới thời các vua George II và vua George III, trước ngày Cách Mạng Mỹ [American Revolution] năm 1774. Nhưng nhờ chánh sách “New Deal” của T.T.Franklin D.Roosevelt (1933-1945) vị T.T. thứ 32 của Mỹ, và việc lập lên cái FDIC [Federal Deposit Insurance Corporation] mà tình thế trở lại yên ổn. Giáo sư Milton Friedman, Nobel Prize về kinh tế, viết: “Nhứt định là FED đã gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng vì thu rút lại một phần ba [1/3] số tiền đang lưu hành.từ năm 1929 tới năm 1930”.
Còn Ông Louis T. McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, thì nói: “Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu rất cẩn thận … Những chủ nhà bank quốc tế tìm cách đem đến đây sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta”
H-: Thế rồi kể từ đó không có Ông T.T. nào dám đụng tới FED nữa?
Đ-: Có chớ, T.T. John F. Kennedy, (1961-1963) vị T.T. thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-th.6-1963 T.T. Kennedy ký một Hành Pháp Lệnh [an Executive Order số 11110] cho phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép Bộ Tài Chành The Treasury phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thoi bạc, bạc, hay là mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ [the power to issue silver certificates against any silver bullion, silver or standard silver dollars in the Treasury] Nghĩa là một khi Bộ Tài Chánh có trong kho một ounce bạc nào, thì Bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưu hành trong nền kinh tế. Như vậy T.T.Kennedy đã tung ra $4.3 tỷ dollars cho lưu hành. Thì FED bank của New York sẽ phá sản, vì dân chúng biết rằng các giấy chứng nhận bạc [silver certificates] của Chánh Phủ được bạc yểm trợ [backed by silver] chớ giấy bạc của FED [Federal Reserve Notes] không có cái gì yểm trợ hết. Lệnh số 11110 nói trên còn giúp chánh phủ trả hết nợ của mình mà không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing. Tức là trên thực tế Lệnh sô 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của mình có bạc yểm trợ, đúng theo Điều I, Phần 8 của Hiến Pháp Hoa Kỳ.
Năm tháng sau, ngày 22-th.11-1963, T.T.Kennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát và tên này hai ngày sau bị Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong Dallas Police Station.
H-: Như thế thì phải chăng là một nhóm tài phiệt cai trị xứ này vì người ta hay nói: “Ai nắm được tiền là nắm được quyền” phải không?
Đ-: Tôi không dám trả lời là phải hay là không [yes or no] vì tôi không đọc được sách nào nói rõ là đã có một tòa án nào kết án một người nào trong giới Mãnh Lực Tiền Tệ [the Monetary Power] hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước Trộm Cắp [the Robber Barons] về tội dùng tiền của mình mua được quyền thế. Cho nên tôi xin để cho quý bạn đọc mỗi người kết luận theo ý kiến của mình.
Tôi chỉ xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838: “Để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, thì tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số phận của những vị Tổng Thống đã có gan dám chặt đầu con hydra tiền tệ: T.T.Andrew Jackson bị mưu sát, T.T.Abraham Lincoln và T.T.John F.Kennedy bị ám sát.
Tài liệu được tham khảo:
The Web of Debt by Ellen Hodgson Brown, nxb Third Millennium, Baton Rouge, 2007
http://www.webofdeb t.com
The Secrets of the Federal Reserve by Eustace Mullins nxb Bankers Research Institute Staunton, 1993
Modern Money Mechanics published by the Federal Reserve Bank of Chicago, now out of print: http://landru. i-link-2. net
The Federal Reserve is a privately owned corporation by Thomas D. Schauf. 11-28-98 in http://www.apfn. org/
NLV
Hydra tiên tệ trên trường quốc tế.
B.S.Nguyễn Lưu Viên.
------------ --------- --------- --------
Lời nói đầu:
Trong bài “Lần theo mê-lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ, chúng ta đã thấy con hydra tiền tệ Mỹ có tên là Federal Reserve [FED]hoạt động như thế nào trên đất Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ[HCQHK]. Hôm nay chúng ta sẽ cố găng tìm xem có con Hydra tiền tệ nào hoạt động như thế trên trường quốc tế hay không?
------------ --------- --------- --------- ---
Nhắc lại một sự kiện lịch sử:
Ngày 18-th.6-1815, cuộc chiến tại Waterloo đang diển tiến, ông Nathan Rothschild, lúc đó đang là một trong số những chủ ngân hàng lớn nhứt của London, nắm được tin Hoàng Đế Napoléon sẽ đại bại trước nhà cầm quyền Anh 24 tiếng đồng hồ. Ông Rothschild liền tung tin nói rằng Napoléon sẽ đại thắng. Giá cổ phiếu trên tòan bộ thị trường chứng khóan lập tức tuột xuống tận dáy. Thì Ông Nathan Rothschild liền tay mua gom, vét hết, các cổ phiếu với giá rẻ mạt. Cuối cùng khi chiến thắng của Tướng Wellington được lan truyền khắp thủ đô London thì giá các cổ phiếu lại tăng vọt lên. Thỉ trong vài giờ, Ông Nathan Rothschild lại tung các cổ phiếu này bán lại, và thu được những khoản chênh lệch kếch xù.
Đó là chuyện thời xưa. Bây giờ chúng ta hãy xem xét chuyện thời nay.
Thỏa Hiệp Bretton Woods. [The Bretton Woods Accords]
Báo chí thường hay nhắc tới cụm từ Bretton Woods. Vậy nó là gì, ở đâu? Tra Từ-điển Webster mới biết đó là tên của một nơi nghĩ mát [resort] trong núi White Mountains ở Tiểu-Bang New Hampshire. Xem bản đồ Tiểu Bang mới thấy nò nhõ xíu nằm trên đường 320 ở giữa hai thành phố nhỏ Twin Mountain và Crawford House. Thế mà năm 1944, trước khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt năm 1945, nó được chọn [theo ý của Ô. David Rockefeller] làm địa điểm hội họp cho một Hội Nghị Quốc Tế về Tiền Tệ. Hai người đóng vai chánh trong Hội Nghị là kinh-tế-gia Anh danh tiếng quốc tế John Maynard Keynes và Thứ Trưởng Tài Chánh Mỹ Harry Dexter White.
Hội nghị đưa đến một thỏa hiệp được gọi là Thỏa Hiệp Bretton Woods [the Bretton Woods Accords] Theo Thỏa Hiệp này thì bản-vị vàng [the gold standard] vẫn được giữ và được đồng dollar yểm trợ [backed by the US dollar] vì đồng dollar được coi là “tốt như vàng” [as good as gold ] và Mỹ cam kết sự có thể đổi [convertibility] dồng dollar ra vàng theo giá $35 dollars một ounce vàng. Bản vị vàng của Bretton Woods [the Bretton Woods gold standard] “chạy đều” được một thời gian, vì ít có nước nào đổi dollars của mình ra vàng, và người ta còn tin tưởng nơi khả năng trả được [solvency] của Hoa Kỳ.
Nhưng kể từ năm 1965 chiến tranh ViệtNam đã kéo nước Mỹ vào vòng xoắn của nợ nần [the spiral of debt] thì T.T. De Gaulle của Pháp, nhận thấy Mỹ tiêu xài quá cái mức vàng được dự trữ, nên đòi Mỹ phải trả lại cho Pháp số vàng tương đương với $300 triệu dollars mà Pháp đang có. Mỹ làm đúng theo lời yêu cầu của De Gaulle. Nhưng kho dự trữ vàng của Mỹ bị “xẹp” đến nỗi mà năm 1971 T.T.Nixon phải rút dollar ra khỏi bản-vị vàng [took the dollar off the gold standard] và hủy bỏ luôn việc đổi dollar ra vàng. Thì các ngân hàng tư nhân và FED lại có dịp dở lại cái trò ảo-thuật “loan” để “create money out of nothing”.
Rồi lại thêm một trò ảo-thuật mới nữa được gọi là “short selling” là một thứ “mượn đầu heo nấu cháo” dựa trên hai nguyên tắc căn bản của “Kinh Tế Thị Trường” là: 1- Luật cung cầu: Hể cung [offre] mà nhiều hơn cầu [demande] thì giá hàng xuống, và hể cung mà ít hơn cầu thì giá hàng tăng lên. 2- mục đích hoạt động của một công-ty là làm sao cho có lợi có lời cho người có cổ phần [shareholder] và ý muốn của người [hay của nhóm người] nắm đa số cổ phần là “ý muốn của vua” giám đốc công ty phải tuân theo.
Và đây là lối hành động của “short selling”. Thí dụ như tôi đã nghiên cứu và khám phá ra được một lối chế tạo một món hàng mà tôi cho rằng sẽ được dân chúng thích, thì tôi phải dựng lên một công ty để sản xuất món hàng đó; nhưng vì không có đủ tiền nên tôi phải kêu gọi người ngoài hùn vốn bằng cách “b�= �n cổ phần” thí dụ như tung ra một triệu cổ phần, mỗi cổ phần giá là $50 dollars. Nhờ có nhiều người hưởng ứng vì thấy món hàng tốt sẽ được dân mua dùng, nên người thì mua vài chục, kẽ thì mua vài trăm, có khi một mhóm kinh doanh mua vài ngàn cổ phần. nên tôi có được 50 triệu dollars để dựng lên “Công ty V”có nhà máy sản xuất, có cơ sở giao dịch, có văn phòng, v.v… Nhờ hàng tốt dân chúng thích, mua nhiều, nên “Công-ty V” phát đạt. Giá trị của cổ phần công ty mỗi ngày một tăng. lên tới thí dụ như $70 dollars mỗi cổ phần. Thường thường người muốn mua cổ phần là mua qua một môi-giới [“broker”] và gởi giấy số cổ phần đó cho “broker” giữ, chớ đâu có đem về nhà. Một ông chủ nhà bank B, thấy “Công ty V” phát đạt nên muốn chiếm lấy nó. Thì ổng [là “bồ tèo”có khi là chủ nhân thật của tên broker] đến “mượn” một số X cổ phần của “Công ty V” và tung số đó ra càng ngày càng nhiều vào thị trường... Thì trên thị trường số cung [của cổ phần “Công ty V”] càng ngày càng tăng, mà số cầu thì có hạn, nên giá của cổ phần càng ngày càng xuống. Nh ng người ở nơi khác có cổ phần “Công ty V” thấy giá cổ phần xuống liền liền, thị vội vã biểu broker của mình bán mau mau cổ phần “Công ty V” của mình, thì trên thị trường tràng ngập cổ phần “Công ty V” với giá rẻ, thí dụ như chĩ còn có $25 dollars mỗi cổ phần. Thì Ông B lấy tiền của nhà bank mình quơ [rafler] hết các cổ phần “Công ty V” có trên thị trường. Ông trả lại cho broker “bồ tèo” của ổng số X cổ phần mà ổng đã “mượn”. Còn phần Y còn lại thì ổng giữ như là của. riêng của ngân hàng B.
Bây giờ ông B có thể có hai quyết định: Một là để cho “Công ty V” vẩn sống, thì ổng bớt hẳn số cung [bán ra] cổ phần Công ty V trên thị trường làm cho giá của nó tăng lên trở lại để đem cái lời cái lợi về cho các chủ cổ phần [mà chính ngân hàng B được hưởng thụ nhiều nhứt vì là nắm đa số cổ phần ]
Hai là ổng có thể giết chết luôn Công ty V, vì trong hội nghị hằng năm, hay hằng tam cá nguyệt của công ty, “ý muốn của người có đa số cổ phần là ý muốn của vua” nên ổng quyết định dẹp bỏ công ty vì quá lỗ lã. bán mau mau với giá rẽ, tất cả máy móc cơ sở của công ty [không còn tên trong danh sách các cơ sở], thì một “bồ tèo” hay một “tay sai” của ổng mua hết máy móc dụng cụ cơ sở đó, để dựng lên một Công ty mới có tên khác, sản xuất cùng một thứ hàng mà dân đã thích mua. Còn tôi, người tìm ra phương pháp chế tạo hàng thì được mướn ở lại làm công như một kỷ-sư chuyên môn, hay là bị đuổi đi. Thế là “Công ty V” mà trong bao nhiêu năm tôi đã tốn không biết bao nhiêu thì giờ và công khó nhọc để nghiên c�= �u, suy nghĩ, thử đi thử lại mới chế tạo ra được món hàng được dân ưa thích và tạo dựng lên được một cơ sở mà tôi lấy làm hãnh diện, trong chốc lát, đã bị nhà bank B nuốt hết, nhờ cái trò ảo thuật “short selling”
Trên bình diện quốc tế, nếu có một tổ chức nào mạnh và giàu, đem áp dụng trò ảo-thuật “short selling” đó vào một quốc gia yếu và nghèo, thì cả hệ thống kinh tế và hệ thống kỷ nghệ còn non nớt của quốc gia ấy, sẽ bị “nuốt” mất hết ……….Mà tổ chức mạnh và giàu đó đã có rồi ……..Đấy là :.
IMF & World Bank. Ngoài việc đưa đến một Thỏa Hiệp, hội nghị ở Bretton Woods nói trên còn đẽ ra được hai con hydra khổng lồ là:
IMF [the International Monetary Fund Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế] và World Bank [the International Bank for Reconstruction and Development Ngân Hàng Quốc Tế] Nói là để giúp Đệ Tam Thế Giới [the Third World] và các quốc gia đã bị chiến tranh tàn phá. Nhưng trên thực tế thì khác hẳn, vì IMF và World Bank sẽ áp dụng cho Đệ tam Thế Giới hai trò ảo-thuật “loan” và “short selling” cộng với hai quan niệm “cho chắc ăn” rất đặc biệt như sau:
1- Để “cho chắc ăn”, các nhà bank thích “chơi” với các chánh phủ “vững chắc”, nghĩa thông thường là các chánh phủ độc tài [The banks preferred “stable” governments for clients. Generally that meant governments controlled by dictators. Theo sách: “The Web of Debt” tr.215]]. Còn từ đâu các nhà độc tài đó có được quyền hành và họ làm gì với tiền, thì không phải là mối lo của các ngân hàng. Cho nên một số quốc gia ở Nam-Mỹ dược thí nghiệm. Ở ChíLợi, ngày 11-th.9-1973 TT... Salvador Allende, một vị tổng thống được dân bầu một cách dân chủ, bị Tướng Augusto Pinochet đảo chánh. Ở Peru chánh phủ bình dân [populist] của T.T. Alan Garcia bị cho vào “sổ đen”[black list] của IMF, nên ngày 28-th.7-1990 thì bị chánh phủ của T.T. Alberto Fujimori thay thế để áp dụng cái gọi là “economic shock therapy” của IMF. Rồi đến Argentina, các cuộc đảo chánh do bọn “Chicago Boys” gây ra.
2- Để “cho chằc ăn” các thứ tiền viện trợ cho y-tế, cho giáo-dục, cho sức khỏe trong các quốc gia mắc nợ phải bị bỏ đi, theo lệnh của IMF, để cho các nhà bank được trả nợ đúng kỳ [Public spending for health, education and welfare in debtor countries was slashed, following IMF orders to ensure that the banks got timely debt service on their petrodollars. .Theo sách:”The Web of Debt” tr.215.] Cho nên trong các quốc gia có nhận viện trợ của IMF,[như Bengladesh, Bolivia, Brazil, Peru Ethiopia, Somalia, Uganda, Việt Nam và một số quốc gia trong khối Liên Bang Soviet URSS củ], con nít đi học phải trả tiền, người đau ốm vào bệnh viện phải trả tiên, chớ không còn được miển phí như trước. Kết quả là ở trong đa số các quốc gia ấy [trong đó có VN thời “bao cấp”] nền giáo dục bị phá tan [Destruction of Education], hệ thống bảo vệ sức khỏe bị sụp đổ [Collapse of the Health System ], thì các bệnh nhiễm trùng tái phát [Resurgence of Infectious Diseases].
Riêng ở Việt Nam còn có một chuyện lạ nữa mà mình không biết là: sau khi CS Bắc Việt chiến thắng, thì IMF đòi Hànội phải trả một số tiền $140 triệu dollars mà Chánh Phủ Saigon [VNCH] hồi trước còn nợ IMF, rồi IMF mới giúp. Thì Hànội phải chịu và may cho Hànội, là Pháp với Nhựt lập lên một “Ủy Ban Bạn của VN” [Friends of VN Committee] cho Hànội mượn số tiền đó để trả cho IMF.
Ngoài các tai hại về y tế và giáo dục nói trên, IMF còn gây ra nhiều tai họa khác độc ác hơn nữa, như đem nước sông vào ruộng để cày cấy mà phải trả tiền nước [ở Bolivia Nam Mỹ] nạn đói [như ở Somalia, Ethiopia] nạn thiếu dinh dưởng [ở cùng hêt] nạn thiếu an ninh, lọan vì biểu tình chống đối và đàn áp [ở cùng hết], nạn nội chiến vì chủng tộc [như ở Uganda] có thể đưa đến nạn diệt chủng [như ở Rwanda] ,v.v. mà các sách tôi đã tham khảo diễn tả rất đầy đủ trong vài ba trăm trang. Tất cả việc đó xẩy ra sau khi áp dụng cái được gọi là “ IMF shock therapy” với “privatization” [tư-hửu-hóa], với “deregulation” [bỏ luật lệ ràng buộc] để “giúp đở”, để “khuyến khích” để “chỉ dẩn” cho dân địa phương. Luôn luôn, dưới chiêu bài là “để thực hiện dân chủ”, “ để gia nhập kinh tế thị trường” và để xây dụng một “Nền Trật Tự Mới”[a New World Order].
Riêng Việt Nam thì không bị những tai họa ấy, nhờ chính sách “Đổi Mới” biến hơn hai triệu “thằng ngụy” đã hèn nhát bỏ trốn ra nước ngoài, trở thành những kiều bào hải ngoại yêu quý, “khúc ruột xa ngàn dậm” của dân tộc, được ân cần mời đi nhũng tours du lịch về VN, để đổ vào nền kinh tế của quê hương hằng năm một hai tỷ, rồi ba bốn tỷ, rồi năm sáu tỷ dollars. Nhờ số tiền đó, vì không phải của IMF cho mượn, thì không bị luật lệ của chủ nợ ràng buộc, cho nên tất cả các cơ quan nghiên cứu quốc tế độc lập đều công khai công nhận là VN tiến bộ, có một nền kinh tế vững chắc, một hệ thống cơ sở căn bản [infrastructure] tốt, đứng hàng đầu trong việc chống nạn nghèo [against poverty ], trong việc chống nạn thất học [against illiteracy] và trong số 20 quốc gia có số lượng Internet nhièu nhứt trên thế giới VN đứng hàng thứ 16 với số 16,500,000 máy [trên Turkey thứ 17 với 16,000,000 máy, trên Australia thứ 18, với 15,085,000 máy,trên Taiwan thứ 19 với14.500.000 máy và Philippines thứ 20 với 14,000,000 máy]. VN có một dân số hơn 83 triệu người, tức là tỷ lệ người dùmg Internet ở VN là 19,40% cũng là đứng hàng thứ 16 [trước PhiLuậtTân thứ 17 với 16,00%, trước Trung Quốc thứ 18 với 12,30%, trước Indonesia thứ 19 với 8,90% và trước India thứ 20 /3.70%]
Friday, June 12, 2009
DÂN TỘC KINH
Dân tộc Kinh là gì ? Nước Việt Nam chỉ có dân tộc Việt thuần nhất về văn hóa,
ngôn ngữ và phong tục tập quán, chiếm đa số (87%) trong 54 dân tộc. Nước Việt
Nam không có dân tộc Kinh.
Dân tộc Kinh là dân tộc thiểu số (khoảng 15 ngàn người) trong 56 dân tộc
của Trung Quốc. Đọc những tài liệu liên quan đền dân tộc Việt Nam phổ biến
trên internet gần đây, chúng ta đều không khỏi ngạc nhiên về một nhóm từ mới
dùng để chỉ dân tộc Việt: Dân tộc Kinh.
Vậy dân tộc Kinh là gì . Tại sao dân tộc Việt lại biến thành dân tộc Kinh ?
Trước hết, chúng ta hãy nêu ra một vài dẫn chứng về sự đổi thay lạ lùng này:
1- . Bài của Quốc Việt – biên soạn theo tài liệu nước ngoài – (nguồn
www.temvn.net): “DÂN TỘC KINH TẠI TRUNG QUỐCDân tộc Kinh (the Kinhs - the
Jings – The Gins) là dân tộc chiếm đa số trong cộng đồng 56 dân tộc Việt Nam
(thực ra là 54 – tác giả viết lầm) với hơn 70 triệu người. Tại Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Trung Hoa, dân tộc Kinh chỉ là một dân tộc thiểu số trong cộng
đồng 56 dân tộc. “
2- Bài của Thanh Trúc, phóng viên RFA: “Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc
anh em, trong đó lớn nhất là dân tộc Kinh ở các tỉnh thành khắp ba miền đất
nước”.
3- Tài liệu của trang Web Chim Viet Canh Nam về 54 dân tộc Việt cũng gọi
dân tộc Việt là dân tộc Kinh. : http://chimviet.free.fr/dangnet/54dantoc/dtv00001.htm
Tìm hiều nguồn gốc danh từ “Kinh” và “Thượng”. Trước năm 1975, tại miền Nam
chúng ta thường hay nói “Kinh Thượng một nhà” để chỉ tình đoàn kết giữa đồng
bào sống ở miền suôi (miền đồng bằng, kinh thành, kinh đô) với đồng bào sống
ờ cao nguyên (thượng du, mạn ngược). Người Kinh mà người Thượng thường hay
gọi để chỉ những người dân sống dưới đồng bằng, kinh thành, kinh đô… bao gồm
người Việt, người Hoa, người Chàm, người Khơ Me…Ngược lại, những người dưới
đồng bằng gọi người dân sống ở cao nguyên là người Thượng bao gồm nhiều dân
tộc thiểu số như Thổ, Mán, H’Mông, BaNa, Gia Rai, Ê Đê…
Nghĩa ngữ nhóm từ “người sinh sống tại một địa phương” trong tiếng Việt
được hiểu là “người địa phương đó”. Thí dụ những người sinh sống tại Hà Nội,
ta gọi là “người Hà Nội”. Nếu ai sinh sống tại Sài Gòn, ta gọi là “người Sài
Gòn”…” Như vậy, nhóm từ “người sinh sống tại một địa phương” không có nghĩa
là một dân tộc của nước Việt Nam, nói cách khác, nước ta không hề có dân tộc
Hà Nội, dân tộc Sài gòn, dân tộc Kinh, dân tộc Thượng, mà chỉ có người Hà
Nội, người Sài gòn, người Kinh (gồm nhiều dân tộc), người Thượng (gồm nhiều
dân tộc)… Ngoài ra, ngày nay, người Việt di dân lên sinh sống ở cao nguyên ở
rất đông. Thí dụ ở Tây Nguyên, số người thuộc dân tộc Việt đã chiếm đa số
với khoảng 4 triệu người so với những sắc tộc thiểu số khác sinh sống tại
đây (dưới 20% dân số Tây Nguyên – theo Nguyên Ngọc http://www.viet-studies.info/kinhte/NguyenNgoc_TayNguyen.pdf
). Vì tình trạng chiến tranh trước đây, số người sinh trưởng tại cao nguyên
mà ta gọi là người Thượng, nay đã di cư xuống ở miền đồng bằng khá đông.
Định nghĩa “Dân tộc là gì?” Tham khảo nguồn tài liệu trên internet, ta tạm
thời chấp nhận những định nghĩa sau đây: Dân tộc là: Cộng đồng người hình
thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ
văn học và một số đặc trưng văn hoá và tính cách. Thí dụ: Dân tộc Việt, Dân
tộc Nga. Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh
thổ, đời sống kinh tế và văn hoá, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc.
Thí dụ: Việt Nam là một nước có nhiều 'dân tộc'. Đoàn kết các 'dân tộc' để
cứu nước.
(Hồ Ngọc Đức, Free Vietnamese Dictionary Project (chi tiết) Lấy từ “http://vi.wiktionary.org/wiki/d%C3%A2n_t%E1%BB%99c) Nguồn gốc dân tộc Việt: Có nhiều giả thuyết. Ta tạm thời chấp nhận: “ Dân
tộc Việt có nguồn gốc là dân tộc Lạc Việt, cùng chủng tộc với nhóm dân Bách
Việt sinh sống tại Lĩnh Nam (phía nam dẫy núi Ngũ Lĩnh và Động Đình hồ) của
nước Trung Hoa thời xưa. Xin nhớ: trước thời nhà Tần xâm lăng Bách Việt,
miền Lĩnh Nam không thuộc về nước Tàu. Tất nhiên dân Bách Việt bao gồm nhiều
tộc Việt cũng không phải là người Tàu và nước Nam Việt sau đó cũng không
phải là nước Tàu . Nếu Nam Việt là nước Tàu hay thuộc về nước Tàu thì hà tất
nhà Hán phải sai Lộ Bác Đức đem quân đi xâm lăng nước Nam Việt?”: http://www.hungsuviet.us/vanhoa/TimhieunguongocdantocViet.html
Dân tộc Kinh là dân tộc thiếu số của 56 dân tộc Trung Quốc Nước Việt Nam chỉ
có người Kinh (khác với người Thượng) sống dưới đồng bằng mà không có dân
tộc Kinh. Nhưng nước Tàu có dân tộc Kinh là một dân tộc thiểu số với khoảng
15 ngàn người trong số 56 dân tộc Trung Hoa. Đây là những người Việt đã di
cư từ vùng Đồ Sơn thuộc Việt Nam sang 3 đảo nhỏ Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm
thuộc tỉnh Quảng Tây, gần biên giới Hoa Việt vì “chẳng may” 3 đảo này lại
thuộc về Trung Quốc:
“Giáo-Sư Nguyễn Văn Canh nói về việc “Trung-Hoa đòi nhượng đất” và “Pháp
cắt dất” như sau: Ðiều 3 Hiệp ước Thiên tân có nói rằng " ở nơi nào nếu cần,
có thể điều chỉnh lại chi tiết cho đúng để đưa đến một biên giới thực sự cho
Bắc kỳ". Phía Trung Hoa vin vào đó, giải thích dấu hiệu này như là giúp đưa
đến những sắp xếp sâu rộng, coi như bồi thuờng về đất đai đối với những
nhượng bộ chính trị mà Trung Hoa đã ưng thuận ở nơi khác. Lý hồng Chương
giải thích cho Đô đốc Rieuner :"Nước Pháp đã được quá nhiều khi chiếm được
Bắc Kỳ, một xứ chư hầu của Trung Hoa từ 600 năm nay...
Điều này làm tôi rất đỗi ưu tư; cần có một đền bù dưới hình thức nhường một
ít đất ở vùng biên giới của Annam đối với tôi như thế là đủ" “Công ước phân
định biên giới trong tình trạng này đã chấp thuận nhượng một phần lãnh thổ
Việt nam cho Trung Hoa ở nơi có tranh chấp giữa hai Ủy Ban. Có 2 địa điểm
tranh chấp chính được nhượng choTrung Hoa: (1) trên biên giới Vân Nam, là
tổng Tụ long, hòan toàn thuộc về đất của Vương quốc Annam và chừng 3/4 đất
đai của tổng này bằng 750 cây số vuông được nhượng cho Trung Hoa và (2)
thuộc tỉnh Quảng Đông là mũi Packlung và "khu vực người Việt nằm trong lãnh
thổ Trung Hoa (Vũ Hữu San - Hải Giới Việt Hoa – http://vuhuusan.110mb.com/haigioi.htm) Tàu muốn gì trong việc gọi dân tộc Việt là “dân tộc Kinh”? Là người Việt,
chúng ta ai cũng biết các triều đại người Tàu luôn luôn dạy con cháu của họ
rằng: “nước Việt Nam chỉ là một quận huyện của họ và người Việt Nam cũng
xuất phát từ người Tàu mà ra. Họ rất ghét Triệu Đà và nước Nam Việt vì ông
vua có nguồn gốc phương bắc này dám chống lại Thiên Triều (thực ra xưa kia
Triệu Đà là người nước Triệu, bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt để sát nhập vào
nước Tàu), nhất là thừa tướng Lữ Gia người Nam Việt đã dám công khai chống
lại quân tướng nhà Tây Hán.
Từ khi nhà Hán sai Lộ Bác Đức tiêu diệt xong nước Nam Việt vào năm 111
trước Công Nguyên, các triều đại Trung Hoa tiếp theo không bao giờ gọi dân
tộc ta là người Việt cả, và không hề chấp nhận những tên gọi nước ta như
“Đại Cồ Việt”, “Đại Việt”, Việt Nam”…do vua nước ta đặt ra. Họ chỉ gọi dân
tộc Việt là “Giao Chỉ” sau đó (đời Đường) đổi thành “An Nam” và phong cho
những vị vua nước ta là “Giao Chỉ Quận Vương” hoặc “An Nam Quốc Vương”. Thực
dân Pháp cũng vậy, chúng toa rập với Tàu gọi người Việt là An Nam (Anamite).
Ngày nay, kể từ khi cố vấn Tàu thành công trong việc khuất phục được đảng
CS Việt Nam cầm quyền cai trị nước ta, họ luôn luôn tìm cách đồng hóa nước
ta , hết bằng phương tiện quân sự (chiến tranh biên giới 1979, chiến tranh
Biển Đông -1987?), đến phương tiện “diễn biến hoà bình” (hiệp ước biên giới
đất liền và biển, dự án Bauxite, chi ếm c ứ Hoàng Sa, Trường Sa…). Rồi thừa
thắng xông lên, cán bộ Việt gốc Tàu đang xâm nhập vào lãnh vực văn hóa và
lịch sử Việt Nam . Hàng loạt những sự thay đổi về Lịch Sử và Văn Hóa Việt
Nam như dời lại thời kỳ Bắc Thuộc gần 100 năm (từ -111 thành -207) (?), dùng
nhiều từ Hán như “lễ tân”, “công hàm”, “hộ chiếu”, “tham quan”…(ngược hẳn
với thời gian trước chiến tranh 1979, lúc đó dùng từ Việt quá lố như “máy
bay lên thẳng”, lính thủy đánh bộ “, “Xưởng đẻ”, …).
Chủ trương biến “dân tộc Việt” thành “dân tộc Kinh” - một dân tộc thiểu số
trong 56 dân tộc Trung Hoa, phải chăng đây cũng là “điểm” trong kế hoạch
đồng hóa Việt Nam thành quận huyện của Tàu, và dân tộc Việt Nam thành dân
tộc thiểu số của Tàu?
Chúng ta cần tỉnh táo trước âm mưu đen tối của kẻ thù truyền kiếp phương
Bắc. Lịch sử đã chứng minh nước Tàu dù mạnh, dù giàu đến mấy cũng không
thề khuất phục nổi dân tộc Việt tuy nhỏ bé kém thế hơn, nhưng tinh thần
quật cường bầt khuất lúc nào cũng mạnh hơn. Chúng ta hãy noi gương bất
khuất của danh tướng Trần Bình Trọng: “Thà làm Quỷ nước Nam chứ không thèm
làm Vương đất Bắc” Vương Sinh __._,_.___
Subscribe to:
Posts (Atom)